Bà công tước AIGUILLON
1, Cô Pontcourlay :
Bà công
tước Aiguillon mang tên sinh là : Marie-Magdeleine de Wignerod
de Pontcourlay (mà chúng ta sẽ gọi là cô Pontcourlay), chào đời
vào cuối năm 1604 tại lâu đài Glénay, gần xứ
Bressuire, miền Poitou nước Pháp. Thân phụ là ông René
de Wignerod và thân mẫu là bà Françoise de Richelieu.
Ḍng tộc
Wignerod gốc Anh quốc, sang lập nghiệp bên Pháp, tại
vùng Poitu, từ hồi vua Charles VII (1422-1461). Ông René de
Wignerod, cận thần của vua Henri IV, được
phong nam tước, nhưng người đương thời
lại quen gọi ông là lănh chúa Pontcourlay.
Về bên
ngoại, bà Françoise de Richelieu xuất thân từ một gia
đ́nh rất nổi tiếng -Richelieu- gồm có tất cả là 5 người
con : con trai cả là Henri du Plessis, con trai thứ hai là
Alphonse du Plessis sau này vào tu trong ḍng Grande Chartreuse, người
con thứ ba trong gia đ́nh là chính bà Françoise de Richelieu, rồi
người con thứ tư là Armand-Jean du Plessis và người
sau cùng là bà Nicole de Richelieu. Người sẽ nổi tiếng
nhất và sẽ đi vào lịch sử nước Pháp sau
này là Armand-Jean du Plessis de Richelieu, hồng y thủ tướng
nước Pháp dưới triều vua Louis XIII.
Vào tuổi
19, bà Françoise de Richelieu lập gia đ́nh với ông
Beauvau ; nhưng cuộc hôn nhân này chỉ kéo dài
được mấy tháng v́ ông Beauvau qua đời đột
ngột ngay trong năm đó. Ngày 23.8.1603, ở tuổi 25,
bà tái hôn với ông René de Wignerod. Hơn một năm sau
đó, họ có được người con gái đầu
ḷng mà tương lai sẽ thành nữ công tước
Aiguillon. Năm năm trôi qua, họ có được thêm một
người con trai là François de Wignerod.
Khi cô
Pontcourlay lên 12 tuổi th́ thân mẫu cô qua đời,
năm 1616. Ông René de Wignerod lúc đó quyết định
đem hai người con sang sống bên quê ngoại, trong
lâu đài Richelieu, phía tây nam thành phố Tours. Từ khi thân mẫu
mất đi, cô Pontcourlay được đặt dưới
sự giám hộ của cậu ḿnh, Armand-Jean du Plessis de
Richelieu, đă là giám mục địa phận Luçon từ
những năm 1605-1608.
Năm
1616, giám mục Richelieu, nhờ sự can thiệp của mẫu
hoàng Marie de Médicis, được bổ nhiệm làm bộ
trưởng bộ ngoại giao và bộ chiến tranh trong
triều đ́nh vua Louis XIII.
Vào đầu
năm 1620, với sự sắp đặt của các gia
đ́nh, hai người trẻ -cô Pontcourley và cậu
Hippolyte de Béthune- gặp gỡ nhau. Thân phụ của cậu
Hippolyte, Philippe de Béthune, là bá tước miền Scelles và là đại
xứ nước Pháp tại Roma. Đôi trẻ làm lễ
đính hôn với nhau vào mùa hè sau đó. Họ cùng trao cho
nhau một t́nh yêu chân thành mà có lẽ cả cuộc đời
họ, họ sẽ không bao giờ quên.
Trong khi
đó, giám mục Richelieu càng ngày càng dấn thân vào việc
triều đ́nh và xây dựng cho ḿnh một tương lai
rực rỡ với sự hậu thuẫn của mẫu
hoàng Marie de Médicis. V́ mưu đồ dàn xếp chính trị
giữa nhà vua Louix XIII cùng mẫu hoàng Marie de Médicis và giám mục
Richelieu, cuộc đính hôn giữa cô Pontcourley và cậu
Béthune bị hủy bỏ, không kể chi đến sự
phản đối của gia đ́nh Béthune. Cô Pontcourlay coi
được là bị ép gả cho hầu tước
Antoine de Grimoard de Beauvoir du Roure de Combalet. Thất vọng và
đau khổ, Hippolyte de Béthune lên đường đi du lịch
khắp nơi trên mảnh đất Âu Châu.
2, Bà hầu tước
Combalet :
Ngày
26.11.1620, tám ngày sau khi đến Paris, cô Pontcourlay được
cậu ḿnh là giám mục Richelieu dẫn vào triều đ́nh
giới thiệu cho vua Louis XIII, cho hoàng hậu Anne d’Autriche,
cho mẫu hoàng Marie de Médicis cùng toàn thể triều thần.
Đám cưới giữa cô Pontcourlay và hầu tước
Combalet được cử hành đương nhiên rất
linh đ́nh vào những ngày tiếp đó. Nhưng chỉ
sáu tháng sau đám cưới, hầu tước Combalet phải
lên đường chiến đấu măi đến tháng
11 năm sau mới ghé về thăm nhà được vài
hôm, rồi lại lên đường ra trận địa.
Ngày 03.9.1622, hầu tước Combalet chết trong trận
chiến tại Montpellier, lúc mới được 22 tuổi,
để lại người vợ trẻ không con cái.
Chồng
chết, bà hầu tước Combalet chỉ c̣n nghĩ tới
một chuyện là vào ẩn ḿnh tu hành trong đan viện.
Goá bụa lúc mới 18 tuổi xuân, sau một lần hôn
nhân không t́nh yêu không con cái, bà vào ḍng kín Carmêlô tại Paris mà vị
linh hướng nhà ḍng lúc đó là linh mục Pierre de Bérulle
(1575-1629). (Năm 1627, ngài được phong chức hồng
y). Sau một năm trong ḍng, bà được nhận áo tập
sinh từ tay cha linh hướng và được phép khấn
tạm. Năm kế tiếp, thân phụ bà qua đời
trong khi cậu và là giám hộ của bà -giám mục Richelieu-
được phong hồng y và trở thành thủ tướng
nước pháp, ngày 19.4.1624.
Ḷng của
bà thiết tha muốn dâng hiến ḿnh trong đời ẩn
tu nơi ḍng Carmêlô, nhưng cậu nàng lại không muốn
nên t́m mọi cách đưa bà ra khỏi ḍng. Lúc đau khổ
phải trở lại triều đ́nh thế gian, bà nhận
được mấy ḍng sau của cha linh hướng
Pierre de Bérulle : « Hỡi
tâm hồn đáng thương, con hăy để mắt nh́n
xem T́nh Yêu của Chúa Giêsu Kitô, xem những ǵ Chúa đă làm và
đă chịu đau khổ v́ con, ngài vẫn c̣n đó và vẫn
c̣n sức mạnh để sinh lại trong tim con. Cha muốn
ḿnh trở nên tro bụi, nên một thứ ǵ đó hèn hạ,
và mong có thể ǵn giữ trong con người của con
T́nh Yêu giáng sinh, sống động và tử nạn
đó ; ngài đă sinh hạ trong một máng cỏ, sống
trong nghèo nàn và chết trên thập tự để
được con yêu mến đến ngàn đời. Con
chẳng có t́nh yêu nào cho T́nh Yêu đó chæng ? Hay trái lại,
con lại nhậy cảm với những t́nh ái ngoại
lai, hèn hạ và mau qua chóng hết hay sao? » - Cả
cuộc đời của bà sau này sẽ là lời đáp
trả nồng nàn cho câu hỏi của vị linh hướng
ḍng Kín Carmêlô thành phố Paris ngày đó.
Thực vậy,
với sắc đẹp lộng lẫy mà kín đáo của
bà, bà không thiếu những nhà quư tộc danh giá và quyền
thế muốn cầu hôn, nhưng bà không hề đáp trả.
Trong những năm 1626, người hôn phu cũ của bà
là bá tước Hippolyte de Béthune, trở lại từ những
cuộc du hành khắp Âu Châu nghe tin bà goá bụa, đă ngỏ
ư xin kết hôn cùng bà. Được tin ấy, bà vô cùng xúc
động chẳng nói nên lời, chỉ nức nở
khóc. Nhưng bà đă trả lời cho cậu ḿnh rằng :
« Con đă khấn hứa
là chỉ c̣n biết duy nhất một ḿnh Thiên Chúa và con sẽ
giữ lời của con. »
Nhà vua
phong bà làm Phụ Nữ Pháp quốc (Dame française), hầu cận
mẫu hoàng Marie de Médicis. Nhưng mẫu hoàng nhận thấy
người mà mẫu hoàng đỡ đầu, tức hồng
y thủ tướng Richelieu, ngày càng thêm ảnh hưởng
trên nhà vua, nên đâm ghen tỵ t́m loại trừ. Do đó,
bà là cháu của Richelieu bị mẫu hoàng gạt bỏ khỏi
giới hầu cận. Tuy nhiên, hồng y Richelieu lại t́m
được tín nhiệm gần như tuyệt đối
của vua Louis XIII. Ngày diễn biến quan hệ đó, lịch
sử nước Pháp gọi là « Journée des Dupes »
(ngày 10.11.1630). Mẫu hoàng Marie de Médecis thấy ḿnh bị
thua cuộc, trốn tỵ nạn sang Bruxelles, rồi Anh quốc
và qua đời tại thành phố Cologne bên Đức
(03.7.1642). Tại Bruxelles, mẫu hoàng vẫn t́m cách trả
thù hồng y thủ tướng Richelieu nên bà cho cận vệ
trở lại Paris mưu bắt cóc bà hầu tước
Combalet làm con tin mà dàn xếp với Richelieu. Nhưng chuyện
bị bại lộ, không thành.
Vào năm
1635, hồng y thủ tướng mua phần đất
Aiguillon, gần thành phố Agen miền nam nước Pháp.
Ư định của ông là với phần đất ấy,
ông sẽ t́m tước vị cho người cháu gái của
ḿnh nếu bà nhất định không chịu tái giá. Thực
vậy, ngày 01.01.1633 nhà vua ban tước vị công tước
Aiguillon cho người cháu gái của hồng y thủ
tướng Richelieu. (Từ nay, chúng ta sẽ gọi bà là bà
công tước Aiguillon).
3, Bà công tước Aiguillon :
Bà công
tước khi nhận phần đất và tước vị
đă bỏ ra 22 ngàn quan tiền « liu » (livres) , ngày 18.8.1637, để xây dựng cho đến
muôn đời một sứ vụ gồm ít nhất là 4
linh mục để lo dạy dỗ và nâng đỡ dân
nghèo nơi phần đất Aiguillon nói trên. (Ngày nay, thị
trấn Aiguillon có trên 4.000 dân).
Nhờ
tước vị « công tước » trên, từ nay
trở đi bà sẽ được hưởng sự bảo
vệ của nhà vua, ngay cả khi mà hồng y thủ tướng
Richelieu là cậu ruột của bà có mất đi. Đó cũng
là ư định mà cậu bà mong muốn cho bà. Ư thức chỗ
đứng đặc biệt đă dành cho bà, bà từ bỏ
ư định sống đời tu tŕ đeo đuổi bấy
lâu nay, và đó cũng là điều kiện để giữ
được tước vị « công tước ».
H́nh
như cả đời ḿnh, không bao giờ bà có dịp
đặt chân lên phần đất Aiguillon cho dù có nghĩ
đến. Bà c̣n bỏ ra 13.500 quan « liu » để
có thể tiếp nhận thêm 3 linh mục nữa ở
đó (ngày 04.7.1642) với sứ mệnh truyền giáo không
những tại Aiguillon mà c̣n tại thành phố Agen và Condom
bên cạnh. Bà cũng cho xây dựng một nhà các cha ḍng
Vinh-Sơn tại phần đất trên.
Sống tại
Paris hay tại lâu đài Richelieu, bà vẫn tiếp tục mối
liên lạc thân thiết với hoàng hậu Anne d’Autriche và
nhiều bằng hữu thuộc triều đ́nh và giới
quư tộc đương thời. Bà vẫn thường
lui tới ḍng Carmêlô để tĩnh tâm, để cầu
nguyện hoặc để nghỉ ngơi. Là thành phần
trong giáo xứ Saint-Sulpice, bà đă hết sức nâng đỡ
cha Jean-Jacques Olier, người đă lập nên tu hội
Xuân Bích chuyên lo huấn luyện các linh mục tương
lai. Nhưng vị linh mục gần gũi với bà nhất
và cũng là người bà hết ḷng cộng tác trong việc
bác ái xă hội là cha Vincent de Paul. Bà là một trong những
bà thuộc nhóm « Dames de charité » của vị thánh
này.
Năm
1642 là năm bà chịu cái tang lớn nhất trong đời
bà khi hồng y thủ tướng Richelieu, cậu của
bà, qua đời tại Paris, ngày 04.12, lúc 57 tuổi. Và chỉ
5 tháng trời sau đó, vua Louis XIII băng hà, ngày 14.5.1643.
Hai cột trụ bảo vệ vững vàng cho bà nay không c̣n
nữa, nhưng hồng y thủ tướng kế vị
là Mazarin cũng như mẫu hoàng Anne d’Autriche vẫn đối
với bà rất tốt.
Khi cậu
ḿnh mất đi, bà chính thức nuôi dạy tại nhà bà
năm người cháu, 3 trai và 2 gái, là con của người
em trai bà. Đó cũng là ư muốn của hồng y Richelieu.
Kéo theo đó, bà được trọng trách cai quản
thành phố Havre là việc đă được trao cho một
trong 3 người cháu trai của bà, nhưng v́ người
cháu đó chưa tới tuổi trưởng thành nên bà phải
đảm đương. (Đức cha Lambert de
Riêng đối
với các công việc truyền giáo hải ngoại, bà
đă là một trong những nhân vật tích cực cộng
tác, từ Canada đến
Ngày
27.9.1660, cha Vincent de Paul qua đời. Bà khóc vị linh
hướng ḿnh như khóc người cha ruột, và cho lấy
trái tim của cha đặt vào trong một ḥm ngọc thạnh
h́nh trái tim mà trao cho các tu sĩ ḍng Vinh-Sơn.
Càng ngày bà
càng cần lui tới ẩn ḿnh trong ḍng Carmêlô. Sau khi mẫu
hoàng Anne d’Autriche tạ thế ngày 20.1.1666, bà khép ḿnh nơi
đó nhiều tuần lễ, trong suy ngắm nguyện cầu.
4, Giă từ trần gian :
Người
phụ nữ hiếm có đó giờ đă tới tuổi
70. Bà chỉ c̣n biết chuẩn bị giă từ cuộc
đời này. Ngày 17.5.1674, bà viết di chúc trong đó
người ta sẽ đọc thấy : « Tôi muốn được
chôn cất ngay sau khi chết, không trưng bày ra công chúng, và
không nghi thức, không trang trí, tại tu viện lớn của
các chị Ḍng Kín, chỗ mà Mẹ Bề Trên sẽ chỉ
dạy cho. » Di chúc đó kết thúc bằng câu tiếng
la tinh như sau : « Domine,
miserere super ista peccatrice » (Lạy Chúa, hăy xót
thương người nữ tội lỗi này).
Mười
một tháng sau đó, bà qua đời, hưởng thọ
71 tuổi : ngày 17.4.1675. Hai hôm sau, thi hài bà được
an nghỉ trong tu viện ḍng Kín Carmêlô Paris như ḷng bà
ước nguyện. Toàn thể giới giáo sĩ và quư tộc
Paris tham dự lễ an táng.
Trước
hết, thi hài bà được đem vào nhà thờ xứ
Saint-Sulpice, sau đó được di chuyển sang ḍng
Carmêlô. Đức hồng y Spada, sứ thần Toà Thánh tại
Paris, chủ tọa buổi lễ đưa tiễn này. Nấm
mộ của bà nằm trong khu vực nội cấm của
nhà ḍng và bà được chôn cất trong y phục nữ
tu ḍng Kín Carmêlô.
Ngày
13.5.1675, tại nhà nguyện Chủng viện Hội Thừa
Sai Paris, một thánh lễ trọng thể được
cha bề trên Brisacier chủ tọa, cầu nguyện cho bà
được an nghỉ trong Chúa.
<
>
Tài liệu : Bonneau-Avenant,
[Toulouse
2000]