Ba cô trinh nữ
xứ Đông năm 1640
Trong cuốn
sách mới vừa được tái bản tại Việt
Nam (5.1998), tựa đề «Tiểu sử - Bút tích Đức
cha Phêrô-Maria Lambert de
«Bấy
giờ có ba người nữ ở xứ Đông (Hải
Dương ngày nay) đă khấn giữ ḿnh đồng
trinh trọn đời. Thoạt khi nghe tin chúa đă ra chỉ
cấm đạo th́ đến Kẻ Chợ (Hà Nội)
cho được xưng đạo ra trước mặt
chúa. Khi đi dọc đường phải chịu nhiều
khổ sở, nhưng đến Kẻ Chợ th́ chúa
đă tha đạo rồi. Lúc ấy ba người nữ
này dốc ḷng chẳng hề ĺa nhau nữa, một ở
chung với nhau cho được tập đi đàng nhân
đức. Về sau có nhiều người nữ khác bắt
chước họ. Có lời truyền khẩu rằng :
Nhà Mụ Bái Vàng trong tỉnh Hà Nội là nhà mụ trước
hết trong nước An Nam. Phỏng th́ là nhà ba người
nữ ấy đă lập ra mà ở, ấy là gốc tích
nhà mụ» (H. Ravier Khánh, «Sử kư Hội Thánh», III, Ninh Phú
Đường 1894, trang 159-160).
Tác giả
Báo Dân
Chúa Âu Châu số 174, tháng 4-1997, trang 36, sau khi trích dẫn câu
chuyện trên, c̣n xác định rơ hơn nữa rằng :
«V́ vậy, ngày nay, nhà ḍng Bái Vàng được coi là tu viện
đầu tiên và là nguồn gốc của các nhà ḍng Mến
Thánh Giá».
Câu chuyện
năm 1640 trên có sắc thái đạo đức, mà các suy
diễn xem ra lại c̣n «đạo đức» hơn nữa.
Do đó, chúng tôi viết mấy hàng về chuyện này, mong
biết thực hư ra sao.
1. Tường
thuật của cha Alexandre de Rhodes.
Câu chuyện
trên là do cha Alexandre de Rhodes (ḍng Tên) kể lại đầu
tiên trong cuốn sách của ngài, tựa đề : «Histoire
du Royaume de Tunquin» (xuất bản tại Lyon, năm 1651).
Chúng tôi
xin dịch lời viết của ngài (trang 306-308) như sau
:
«Có ba cô
gái trẻ thuộc tỉnh mà người ta gọi là xứ
Đông đă khấn hứa với Thiên Chúa là giữ đời
đồng trinh; ḷng quả cảm của họ lúc vừa
hay tin có cơn bách đạo thật là phi thường. Họ
viết một bức thư (rất) đẹp cho các cha
ḍng chúng tôi; trong đó, họ biểu lộ ḷng can đảm mà Thiên Chúa đă ban cho họ khiến
họ tự đến xưng ḿnh là Kitô hữu trước
mặt nhà vua và tuyên xưng sẵn sàng vui ḷng đổ hết
máu ḿnh ra hầu ǵn giữ danh hiệu (Kitô hữu) cùng phẩm chất (đồng trinh) vinh hiển
ấy mà họ muốn sống và chết (như vậy).
Những
trinh nữ này tên là Monica, Nympha và Vitta.
Sau
đó ít lâu, Thiên Chúa đă sửa soạn cho họ một
thử thách lớn về ḷng can đảm của họ
và là một dịp tốt đẹp cho họ lập công.
Bởi v́, Vitta bị một tên lính vô liêm sỉ bắt gặp
nơi thanh vắng và hắn dụ dỗ nàng hại danh dự
ḿnh, đến độ hắn tuốt gươm trần
ra để trên ngực nàng mà đe dọa sẽ giết
nàng nếu nàng không muốn thuận theo những ư muốn
của hắn. Người thiếu nữ cao cả
đó, không căi vả : «Vâng dạ (trong nguyên bản : «Ouy
dea»), nàng bảo hắn, ông sẽ cất được mạng
sống tôi hơn là danh dự của thân xác tôi mà tôi đă
hiến dâng cho Thiên Chúa». Vừa nói, nàng vừa đưa cổ
và ngực cho hắn. Nàng thêm : «Ông hăy đâm chỗ nào ông muốn,
tôi sẽ vui ḷng chết ngh́n lần hơn là chiều theo
đ̣i hỏi vô liêm sỉ của ông và tội lỗi phản
nghịch cùng Thiên Chúa mà tôi phụng sự». Quyết định
dứt khoát ấy đă làm ngạc nhiên tên lính và cứu
được danh dự cho người trinh nữ.
Hai thiếu
nữ kia cũng đă tỏ ra không kém phần can đảm
trong một thử thách tương tự mà niềm tin của
họ bị tấn công. Họ đi đến Kinh Thành
cùng một bà già tốt lành tên là Phan-xi-ca để lănh nhận
các phép Bí Tích tại đấy và bồi dưỡng sức
mạnh chống trả những tấn công của cuộc
bách hại. Trên đường đi, họ bị những
người lính ngoại đạo bắt gặp và bị
hỏi về niềm tin mà họ vâng giữ. Họ đă
xưng đức tin ra cách thẳng thắn và triệt
để, chẳng hăi sợ những đe dọa của
những người lính đó. Sau khi chịu những lời
thô bỉ hỗn hào, họ bị quẳng xuống những
hố, bị lấp đất đầy tới cổ.
Họ nằm trong cảnh như vậy suốt cả
đêm cho tới sáng, mà Thiên Chúa muốn cho họ được
các bổn đạo gặp thấy. Các bổn đạo
kéo họ ra khỏi đó và dẫn họ vào trong Thành phố.
Từ
lúc đó, ba cô gái này đă được đem đi ẩn
ở một nơi an toàn; và có năm hoặc sáu cô khác, cũng
mang một quyết định như vậy và cùng giữ
ḿnh theo những lời khấn sống trinh khiết trọn
đời, đă đến hợp với họ trong cùng
một căn nhà, làm thành một đàn nhỏ các trinh nữ
và sống một đời sống thiên thần».
Về
câu chuyện vừa kể, chúng tôi có phản ứng như
sau :
1, Cá nhân chúng tôi không nghĩ là ba cô gái nhà quê
này có thể gặp vua Lê (lúc đó là
2, Câu chuyện «Ba cô trinh nữ xứ
Đông» trên chấm dứt hoàn toàn ở đấy. Không hề
nghe ai trong các thừa sai thời đó nói đến nữa.
Ai muốn truyền tụng thế nào th́ truyền tụng;
c̣n căn cứ trên sử liệu th́ chúng ta phải khiêm tốn
nhận là chúng ta không biết chi hơn nữa. Nếu một
ngày nào đó, có ai t́m ra được tài liệu dẫn chứng
rơ hơn th́ lại là chuyện khác.
3, Câu cuối cùng : «Dans un même logis, où elles
font un petit Choeur de Vierges, et
mènent une vie d'Anges.» - Hồng Nhuệ đă dịch như
sau : «Trong một nhà làm thành một
tu viện trinh nữ sống đời sống các thiên
thần». («Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài»,
Ủy ban Đoàn kết Tôn giáo Tp Hồ Chí Minh 1994, trang
198). Phần chúng tôi, chúng tôi không dám dịch chữ «Choeur»,
mà nghĩa đầu tiên là «Ban hát», thành «tu viện», chỉ
dám tạm dịch là «đàn».
Tường
thuật của cha Alexandre de Rhodes đạo đức,
nhưng c̣n đơn sơ, chưa đủ cho chúng ta thấy
đời sống có tính tu tŕ của các phụ nữ Công
Giáo Việt Nam thời đó, thời của các thừa sai
ḍng Tên tại Việt Nam. Hơn nữa, ngài không cho biết
thái độ nói chung của các cha ḍng Tên về vấn
đề các thiếu nữ hoặc phụ nữ Việt
Nam muốn dâng ḿnh cho Chúa, như là ngài đă nói rất rơ
ràng và chi tiết về các thầy giảng.
Bài
tường thuật của cha Filippo de Marini, cũng là thừa
sai ḍng Tên tại Việt Nam (lần đầu từ
năm 1647 đến năm 1658), sẽ cho chúng ta hiểu
rơ hơn về điểm này.
2. Tường
thuật của cha Filippo de Marini.
Theo lời
kể của cha Marini, trong cuốn sách do ngài soạn bằng
tiếng Ư và xuất bản năm 1663 tại Rôma, tựa
đề «Delle missioni de' padri della compagnia di Giesu nella
provincia del Giappone, e particolarmente di quella di Tunkino», những
thiếu nữ Kitô hữu muốn sống độc thân,
hoặc v́ chuộng đời sống khiết tịnh, hoặc
v́ chạy trốn hôn nhân với người ngoại đạo
hay trốn làm vợ lẽ, không phải là không có. Các thiếu
nữ này thường bỏ làng quê, t́m ẩn náu nơi nhà
một bà đạo đức nào đó, đôi khi chỉ
trong một thời gian ngắn.
Ngài viết
(trang 223) : «Ngày nay, bởi v́ tại Đàng Ngoài không có các Nội
Cấm («Chiostri», tức tu viện), nhiều thiếu nữ
trẻ độc thân trốn khỏi Thành phố ḿnh, và nhờ
công việc chân tay, họ nuôi sống ḿnh, nhận hầu hạ
trong những nhà các bà có đạo; các bà ấy coi họ
như con gái riêng ḿnh; cứ như thế, các cô sống
gương mẫu, tựa như họ là những Nữ
tu : không ham muốn sự ǵ nơi trần gian này («come se
sossero Religiose : senza voler sapere di Mondo»)».
Thừa
sai Marini (cũng như các thừa sai ḍng Tên) không muốn tổ
chức ḍng tu cho các thiếu nữ đồng trinh này, kể
cả cho các thiếu nữ có thiện chí nhất.
Ngài viết
tiếp : «Thực sự, một cách chung chung chúng tôi không
nhận sự ly thoát trần gian này, trừ ra những
trường hợp khẩn cấp và chỉ trong một
thời gian rất ngắn ngủi. Bởi v́ những
người ngoại, những kẻ giầu có thấy
hành động của các cô và không coi đó như một
Bí Tích («Sagramento» : thừa sai Marini hơi lầm chỗ này
: khấn ḍng không phải là một bí tích), có thể có thành
kiến mà chế nhạo họ, hiểu xấu hành động
của họ, chửi rủa cộng đoàn người
có đạo; nhưng (chúng tôi không lập ḍng tu) cũng c̣n
là để tránh những phiêu lưu nguy hiểm cho những
ai dấn thân vào công cuộc rất to lớn này».
Lời
của thừa sai Marini có vẻ gần với sự thực
hơn tường thuật của thừa sai Alexandre de
Rhodes đă trích dẫn trên.
Nói tóm lại,
các cha ḍng Tên thừa sai tại Việt Nam đă không lập
một cộng đoàn nữ tu nào. Cùng lắm, các ngài mới
phải lo liệu nơi ăn chốn ở cho một vài
trinh nữ có đạo gặp khó khăn mà thôi, và chỉ
trong một thời gian rất ngắn.
Phải
chờ đến thời kỳ mà công việc rao giảng
Phúc Âm tại Việt Nam được trao phó cho Hội Thừa
Sai Paris, chúng ta mới thấy ḍng nữ được
thành lập tại Việt Nam.
3. Tường
thuật của cha François Deydier.
Những
thừa sai người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris
đến Việt Nam đầu tiên là các cha Chevreuil
(năm 1664, tại Nam Việt), cha Hainques (năm 1665, tại
Nam Việt) và cha François Deydier (năm 1666, tại Bắc Việt).
Tại
Bắc Việt, cha François Deydier (tên Việt là Phan) quy tụ
được hai nhóm nhỏ các chị em muốn sống
chung với nhau. Ngài là thừa sai đầu tiên đă giúp
các trinh nữ Công Giáo Việt Nam sống chung có tính cách
đời tu.
Sự
thực, những «người đồng trinh» thuộc
hai nhóm đă được quy tụ lại không nhiều
như người ta đă nghĩ hay muốn nghĩ
như vậy. Chính cha Deydier đă viết trong lá thư
tường thuật của ngài gửi đức cha Pallu
(tài liệu viết tay : Kho Thư Văn của Hội thừa
Sai Paris, tập 677, trang 53, hoặc : tập 677, trang 67) :
«Từ
Kẻ Ṿi, con sang Kẻ Vuống [Muông]
là nơi cách đó một nửa ngày đàng (ngài đến
Kẻ Vuống [Muông] khoảng ngày
3.4.1669). Nhà thờ (tại Kẻ Vuống [Muông]) này có hai gian. Một trong các thày giảng
tên gọi là
Trước
đó hai năm, cha Deydier cũng đă báo cáo cho giám mục
của ngài là đức cha Pallu rằng :
«Ngày
1.11.1667
Con phải
nghĩ đến làm lề luật phép tắc cho hai nhà các
thiếu nữ và một vài bà góa muốn sống chung với
nhau; nhưng con chẳng có quyển sách nào hầu giúp con
trong chuyện ấy. Con nghĩ rằng con có thể quy tụ
lại được gần ba chục chị em là những
người chỉ ao ước sống như thế,
nhưng làm cách nào mà có thể đủ cho tất cả mọi
sự : giải tội mọi ngày mọi đêm cho một
số đông người, bao nhiêu là thư từ phải
trả lời ?
Con chỉ
thiếu ba bốn ngày rảnh rỗi là hoàn tất
được một thủ bản 14 bài suy gẫm, cho
hai tuần lễ, và đă hơn ba tháng rồi mà thủ bản
ấy vẫn c̣n nguyên t́nh trạng cũ mà con không thể
nào hoàn tất được». (Tài liệu viết tay : Kho
Thư Văn của Hội Thừa Sai Paris, tập 677,
trang 27. Đăng trong : A.Launay, «Histoire de
Sự
thể là như thế. Sau này, có lẽ v́ ḷng «yêu Chúa kính Mẹ»
quá đỗi, người ta đă viết ra rằng : «Tại
Đàng Ngoài, ba năm trước ngày thành lập Ḍng, 30
trinh nữ đă tụ họp lại với nhau» («Các nữ
tu Mến Thánh Giá tại Việt Nam», sách đă dẫn, trang
45). Về chuyện này, cha Deydier chỉ có viết : «Je pense que je puis en assembler près d'une trentaine qui ne respirent qu'après
cela : Con nghĩ rằng con có thể quy tụ lại
được gần ba chục chị em là những
người chỉ ao ước sống như thế».
&
Sự
thật lịch sử duy nhất mà ngày nay chúng ta được
biết là trước năm đức cha Lambert de
Bác Ga,
Toulouse 7.1998