Góp ư cho Tổng Tu
Nghị
Kính chị
Marie-Claire,
Ngày lễ
Thánh Linh vừa qua, tôi nhận được émail của
chị, trong đó chị có viết : « Hội ḍng sẽ
họp Tổng Tu Nghị vào ngày 14/6/2002 và sẽ làm việc
trong 2 tuần lễ. Chúng con sẽ có nhiều thời gian
để chia sẻ, lắng nghe và trao đổi với
nhau. Chúng con rất mong được lắng nghe những
đóng góp ư kiến của cha, xin cha đừng quên Hội
ḍng MTG Bắc Hải nhỏ bé và c̣n thiếu thốn về
mọi mặt. Con xin hết ḷng cám ơn cha trước. »
Kính chị,
Chị
đă biết là tôi luôn lưu tâm tới Hội ḍng Bắc
Hải rồi, và điều chi tôi muốn góp ư với Hội
ḍng th́ tôi cũng đă nói rồi. Nay, tôi có viết gửi
đây mấy hàng th́ cũng là để chị thấy rằng
tôi hằng lưu tâm tới đời sống của Hội
ḍng Bắc Hải, hơn là v́ lư do nào khác.
Để
góp phần cho Tổng Tu Nghị « chia sẻ, lắng
nghe và trao đổi với nhau » về những ǵ Thánh
Thần của Đấng Phục Sinh muốn nói với Hội
ḍng Bắc Hải, tôi xin gửi những điều liên
quan tới các tu sĩ mà Giáo Hội Việt Nam đă nói lên
trong dịp chuẩn bị Thượng Hội Đồng
Giám Mục Á Châu (năm 1998 tại Roma).
(Trích từ : « Bản
đúc kết các câu trả lời của các giáo phận Việt
Nam cho bản câu hỏi của "Lineamenta" Thượng
Hội Đồng Giám Mục Á Châu »).
« Một
số linh mục, tu sĩ, lại theo lối sống gần
với người Tây Phương hơn là với đồng
bào, và v́ có mức học vấn cao nên họ thường
tỏ ra tự tin, có khi tự măn. »
« Giáo
Hội như bung ra một cách rầm rộ (nhất là
trước năm 1975 và sau thời kỳ mở cửa) ;
xây cất, thu cho ḿnh tối đa những phương tiện
vật chất - nhà thờ, đền đài, xe cộ, máy
móc hiện đại ; đàng khác, tŕnh độ giáo
lư của người làm công tác loan báo Tin Mừng hăy c̣n thấp
kém, việc đào tạo huấn luyện dậm chân tại
chỗ, c̣n rất nhiều thiếu sót. T́nh trạng nầy
không những gặp thấy ở các giáo lư viên tại các
giáo xứ (chỉ là người thiện chí dâng công cho công
tác tông đồ), mà ngay cả ở cấp chủng viện,
tập viện của một số đông ḍng tu. »
« Những
công việc có vẻ sơ đẳng, âm thầm, như
giúp trẻ khuyết tật, người phong cùi, người
nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh không được
ai quan tâm, th́ người công giáo và nhất là các nữ tu
được mời gọi tham gia. Sự hiện diện
âm thầm với những phương tiện nhỏ bé,
nghèo nàn, dễ được mọi người chấp
nhận. Như vậy Giáo Hội trở lại gần với
người nghèo hơn, đồng cảm với họ
trong thân phận làm người. Nhờ đó, qua chứng
tá của người tín hữu, những người khác
dễ nhận ra thông điệp và khuôn mặt đích thực
của Đức Kitô, Đấng đă làm người
nghèo ở giữa các người nghèo để phục vụ. »
« Nhà
"truyền giáo" Việt Nam hôm nay thường là giáo
dân, đặc biệt là nữ tu. Cũng như trong thời
đầu của Giáo Hội tại đây, và giống
như thời Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem, chính giáo
dân là những người đầu tiên đă đem Tin Mừng
ra khỏi Giêrusalem (x. Cv 11, 19-21). Ngày nay, giáo dân và nữ tu,
và cả giới trẻ nữa, đang âm thầm làm chứng
cho Đức Giêsu ở khắp mọi miền đất
nước chúng tôi. V́ vậy, chúng tôi mong muốn cho công lao
của họ được nh́n nhận, và việc làm của
họ phải được nâng đỡ khuyến
khích. »
Đọc
qua những lời trên và hiểu thấu thế nào là
ơn gọi làm nữ tu Mến Thánh Giá như đă
được thể hiện nơi Đấng Sáng Lập
ḍng là đức cha Lambert de
1, Can
đảm từ chối « lối sống gần với
người Tây Phương » mà dấn thân sống nghèo
nàn hơn nữa.
2, Can
đảm « ở những vùng xa xôi hẻo lánh không
được ai quan tâm », « với những
phương tiện nhỏ bé, nghèo nàn », để cho
« những người khác dễ nhận ra thông điệp
và khuôn mặt đích thực của Đức Kitô ».
3, Can
đảm lo nâng cao « tŕnh độ giáo lư của
người làm công tác loan báo Tin Mừng » cũng
như các « việc đào
tạo huấn luyện » cần thiết khác, hầu
trở nên « nhà "truyền giáo" Việt Nam hôm
nay ».
Sau
đây, tôi xin gửi chị câu chuyện Nữ Tu Annà Miều,
nguyên văn như tôi đọc được vậy :
« Hạnh
bà Annà Miều.
« Bà
Annà Miều sanh ra năm 1838, tại họ Cái Mơng, cha
người là Vêrô Ngọ, mẹ là Luxia Quyến. Hai ông bà
trong nhà đủ xây dựng, song có ḷng đạo đức,
sau làm tới chức ông trùm nhứt họ Cái Mơng.
« Ông
trùm siêng năng dọn dẹp, sửa soạn trong nhà thờ,
lại có tánh thiệt thà, chịu lụy, người biết
làm thợ khéo léo. Cha bề trên Gernot Quí hay dùng người
coi sóc làm nhà thờ, nhà phước, nhà lầu cha ở,
cùng phú các việc cho ông trùm ǵn giữ hết.
« Đến
sau cha muốn cho có một ông trùm luôn, nên cha chịu một
ít lương vừa đủ cho vợ con người
mua lúa gạo mà chi dùng, th́ từ ấy về sau ông trùm phế
hết các việc nhà, chỉ lo việc nhà thờ, nhà
phước cho đến măn đời người. Cha bề
trên thấy người có công nghiệp nhiều, th́ xin
Đức cha Mỹ chôn xác người trong nhà thờ, có
đặt tấm đá, thích tên họ, bây giờ hăy c̣n.
« Annà
Miều mới tới 12 tuổi, có tỏ cùng cha giải tội
muốn đi nhà phước. Cha Tám thấy c̣n nhỏ th́
đ́nh lại, để trọng tuổi sẽ hay. Vừa
được 15 tuổi, Annà Miều ĺa nhà cha mẹ mà vào
nhà phước Cái Mơng, đương lúc bà Matta Lành làm
bà nhứt, là năm 1853, cũng là năm
« Tuy
c̣n nhỏ tuổi, Annà Miều đằm thắm, dễ
thương, trí hóa nhiều. Thấy nhà phước ở
nhà chật hẹp, rách rưới, bèn thưa với cha Lựu
là cha sở, đặng nói với cha người là
« Vào
nhà tu đặng bốn năm, Annà Miều được
mặc áo đen. Từ đây về sau hằng tỏ ḷng
sốt sắng, siêng năng, gan dạ, mạnh mẽ mà lo
việc Chúa, cùng sẵn ḷng chịu chết v́ đạo
thánh Chúa nữa.
« Năm
1858, bà nhứt Lành bị bắt v́ đạo, đang lúc
quân lính chộn rộn, bà nhứt ra dấu cho các chị
nhà phước phải trốn. D́ Annà Miều và một d́
nữa không chịu đi, quyết ḷng theo bà mà chịu chết
v́ đạo thánh Chúa. Cha sở Tùng hay được,
người viết giấy dạy phải trốn, nên d́
Miều phải vưng mà ẩn ḿnh ở lại.
« Khi
nhà nước Langsa lấy tỉnh Vĩnh Long th́ cha bề
trên Gernot Quí đă về nhậm họ Cái Mơng, đâu
đó được b́nh an lại. Cha nầy siêng năng,
cần mẫn, sửa soạn nhà thờ, nhà phước lại,
nhứt là người lo lắng ân cần việc chầu
nhưng. Người kiếm chẳng ra thầy dạy,
túng lắm, người phải sai d́ Miều, mới có 20
tuổi, ra dạy kinh cùng cắt nghĩa sách phần cho
người đạo mới. Nhiều lần d́ Miều
gặp người chữ nghĩa và bọn thầy chùa
tra vấn lẽ đạo, người cậy sức
Chúa đối lại với chúng nó cách thông suốt, làm cho
chúng nó phải chịu thua.
« Ngày
24 juillet 1867, d́ Miều lên làm bà nh́, mà c̣n phải đi dạy
Phú Hiệp, Ba vác, Mỏ Cày, Bang Tra, Cái Hàng, Cái Tắc, Giồng
Mít, v.v. Từ năm 1867 cho tới 1869, bà nh́ đă đem
hơn 600 người vào học đạo thánh Chúa.
« Vậy
ngày 19 mars 1869, nhằm ngày lễ
« Từ
đây về sau bà nhứt không c̣n đi dạy nữa, song
ḷng hằng ái mộ việc chầu nhưng. Mỗi bữa
tối, bà nhóm các d́ lại mà dạy cách đi đàng
nhơn đức, chỉ cách phải dạy kẻ đạo
mới và phương phép dạy con gái nhà có đạo nữa.
« Năm
1873 số nhà phước Cái Mơng mặc áo đen 27
người, áo trắng học tập 13 người, cọng
là 40 người mà thôi.
« Bởi
sự khôn ngoan nhơn đức của bà, cho nên nhiều
người rùng rùng xin vô nhà phước, càng ngày càng
đông, chẳng phải nội họ Cái Mơng mà thôi,
song các họ như Mặc Bắc, Giồng Rùm, Băi Xan, v.v.
nữa. Năm 1915, số nhà phước, 166 người
áo đen, 42 người áo trắng tập học, cọng
là 215 người. Bà nhứt cũng lo cất một cái nhà
từng rộng lớn đặng các d́ ở cho rộng
răi.
[…]
« Từ
năm 1880 cho tới năm 1914 nghĩa là 34 năm, các d́
lănh dạy chầu nhưng được 4.676 người
chịu phép rửa tội.
« Bấy
lâu bà những đầy ḷng mến Chúa yêu người, hết
ḷng thương giúp kẻ lưng vơi khốn nạn, bố
thí cho cách rộng răi, nhất là những kẻ khó khăn
chạy đến cùng người, th́ chẳng hề khi
nào phải về tay không, dầu khi liệt gần chết,
th́ cũng nhắc các d́ phải cho mấy người chầu
nhưng và khó khăn, lúa, mắm, kẻo nó đói khát tội
nghiệp ! Ấy là tiếng sau hết mà tạ thế.
[…]
« Bà
nhứt Annà Miều, làm bà nh́ hai năm, làm bà nhứt cho tới
46 năm. Theo luật nhà phước, hễ ba năm th́ bắt
thăm bà nhứt một lần, song bởi mỗi kỳ
bắt thăm, th́ gần hết thảy, cũng chọn
bà Annà Miều làm bà nhứt, cho nên bà làm bề trên luôn cho
đến chết. Từ bước chơn vô nhà phước
cho đến chết là 62 năm, hưởng thọ
được 77 tuổi. […] ».
(E. Paul Bính, trùm họ Giồng
Thủ Bá).
Nữ
tu Annà Miều là một gương sáng cho các nữ tu Mến
Thánh Giá, đặc biệt trong công tác dạy « chầu
nhưng », tức ơn gọi truyền giáo của hội
ḍng.
Kính gửi
về chị và Hội ḍng Bắc Hải tâm t́nh quư mến
của tôi và xin Chúa chúc lành cho Tổng Tu Nghị của Hội
ḍng.
Toulouse, ngày 23.5.2002,
PJD.