Lời khấn
đơn
Một
chút lịch sử về lời khấn đơn nơi
ḍng nữ
Chỉ
từ đầu thế kỷ 20 trở đi, Giáo Hội
mới chính thức nh́n nhận « ba lời khấn
đơn » là những « lời khấn ḍng ».
Trước đó, để trở thành nữ tu phải
làm « ba lời khấn trọng ».
(Ba lời
khấn ḍng là « khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời »).
Ở
đây, chúng ta chỉ nói chuyện từ công đồng
chung Triđentinô trở đi mà thôi.
1.
Công đồng Triđentinô :
Tại
công đồng Triđentinô (1545-1563), khi bàn về đời
sống tu sĩ, không có vấn đề « lời khấn
đơn » nơi các nghị phụ (khoá XXV : De
regularibus et monialibus). Muốn trở nên tu sĩ th́ phải
có « lời khấn trọng thể ». Riêng về giới
nữ, tuyên khấn « lời khấn trọng thể
» để làm nữ tu c̣n có nghĩa là phải vào sống
tu trong đan viện (monastère : tu viện kín). Thời
đó, không có các nữ tu làm việc tông đồ ngoài xă hội.
Tuy nhiên,
không phải ai cũng có thể sống trong đan viện
được ; do đó, có nhiều giáo dân đạo
đức vẫn sống tuân thủ ba lời khuyên Phúc Âm,
nhưng hoàn toàn ở ngoài đời. Ngay trước công
đồng Triđentinô, những h́nh thức sống
như vậy đă phát triển nhiều nơi, đặc
biệt khi thánh Đa Minh (+1221) đưa ra luật
« Ḍng Ba Đa Minh » và thánh Phan-xi-cô (+1226), « Ḍng Ba
Phan-xi-cô ». Những giáo dân vào « Ḍng Ba » ấy càng
ngày càng có khuynh hướng sống chung với nhau thành tập
thể, nhưng Giáo Hội không coi họ là « tu sĩ ».
2.
Hiến chế « Circa pastoralis » :
Ngày
29/5/1566, đức thánh giáo hoàng Piô V (+1572) theo tinh thần
công đồng Triđentinô, muốn thăng tiến đời
sống tu sĩ, đă kư hiến chế (constitution) « Circa
pastoralis ». Trong đó, ngài đặt định rơ ràng
cho nữ tu phải tuyên khấn trọng thể và sống
trong đan viện. Ngài c̣n khuyến khích tất cả các
phụ nữ đạo đức đang thuộc
« Ḍng Ba » hăy làm lời khấn trọng thể và vào
sống trong tu viện kín.
Sau ngài,
đức giáo hoàng Grêgôriô XIII (+1585) cũng mang một lập
trường như vậy. Hiến chế do ngài kư,
« De sacris virginibus » ngày 30/12/1572, khẳng định lời
dạy của hiến chế « Circa pastoralis ».
Nhưng
cũng chính đức giáo hoàng Grêgôriô XIII, một năm
trước khi qua đời, bằng sắc chỉ (bulle)
« Ascendente Domino » (ngày 25/5/1584) đă nh́n nhận các trợ
sĩ Ḍng Tên chỉ làm « lời khấn
đơn » là những « tu sĩ » đích thực.
Đó là lần đầu tiên, « lời khấn
đơn » được Giáo Hội coi là « lời khấn
ḍng » ! Đến cuối thế kỷ thứ 16
sang thế kỷ thứ 17, quan niệm nữ tu là phải
« khấn trọng thể » và sống nơi
« kín cổng cao tường » vẫn c̣n rất mạnh
tại Âu Châu. Chính v́ vậy, thánh Phan-xi-cô đệ Salê
đă không lập được ḍng « Thăm Viếng »
làm việc tông đồ ngoài xă hội như ngài mong muốn.
Rút kinh nghiệm này, thánh Vinh-Sơn đă chỉ để
các « nữ tu » « Nữ tử Bác ái » của
ngài được coi như các « phụ nữ hội
đạo đức » mà thôi.
3.
Hiến chế « Conditae a Christo » :
Sau cùng,
luật Giáo Hội thực sự thay đổi thái độ
vào cuối thế kỷ thứ 19 sang đầu thế kỷ
thứ 20.
Trước
tiên, Toà Thánh ra sắc lệnh (décret) « Ecclesia Christi »
ngày 11/8/1889 nh́n nhận là « tu sĩ » những ai chỉ
làm « lời khấn đơn ». Đức giáo hoàng
Lêô XIII, ngày 8/12/1900, cho ra đời hiến chế
« Conditae a Christo » xác định sự nh́n nhận
này ; và năm kế tiếp, tài liệu tựa đề
« Normae » (năm 1901) được trao cho các giám mục
để chỉ dẫn các việc liên quan tới các hội
ḍng mang « lời khấn đơn ».
Đức
giáo hoàng Lêô XIII, trong hiến chế của ngài, đă cẩn
thận phân biệt « ḍng địa phận » và
« ḍng giáo hoàng, hay, ḍng miễn trừ », đồng
thời cũng hướng dẫn việc thu nhận hoặc
sa thải tu sĩ, việc bầu bề trên nhà ḍng, vân vân.
Năm
1917, bộ giáo luật ra đời, trong ấy vẫn c̣n
sự phân biệt (hay đúng hơn, phân cách) giữa
« tu sĩ khấn trọng thể » và « tu sĩ
khấn đơn thường » : « Trong những
buổi hội hè, hoặc, trong những khi rước
sách, các hội ḍng (congrégations) phải nhường bước
cho những ḍng tu lớn (ordres) (điều 491). Và giữa
các hội ḍng (congrégations) với nhau, quyền ưu tiên
được dành cho các hội ḍng thuộc quyền giáo
hoàng, trước các hội ḍng thuộc quyền giám mục
địa phận (điều 188, 9).
Tại
Việt Nam, khi Giáo Hội được hưởng một
chút tự do tôn giáo sau những thời bắt đạo
tàn khốc có một không hai trong lịch sử nhân loại,
các nữ tu Mến Thánh Giá bắt đầu củng cố
và cải tổ theo bộ giáo luật năm 1917. Từ những
« lời dốc ḷng » các chị chuyển sang « lời
khấn đơn » theo ư của đấng sáng lập,
Đức Cha Lambert de
« Sự
khấn và sự dốc ḷng khác xa nhau lắm. V́ chưng, dù
người ta dốc ḷng vững vàng thể nào, th́ vốn
sự dốc ḷng chẳng buộc cho nhặt, cho nên điều
ǵ người ta dốc ḷng giữ, mà sau bỏ không giữ,
th́ vốn không có tội ǵ. C̣n sự sai lời khấn th́
vốn có tội ». (Trích Đức cha Cooman Hành, « Luật
phép nhà ḍng nữ khấn đơn », Hongkong 1924, trang
35).
< >
(năm 2000)