Những
cải cách trong lịch sử ḍng Mến Thánh Giá
Ngày
02.02.2000 vừa qua, bảy hội ḍng Mến Thánh Giá tại
Sài G̣n đă chính thức theo Hiến Chương mới,
được soạn lại theo tinh thần công đồng
Vaticanô II và bộ giáo luật năm 1983. Nhân dịp này,
chúng tôi t́m hiểu những cải cách nơi ḍng Mến
Thánh Giá từ khi ḍng được thành lập vào năm
1670 cho đến ngày nay. Chúng tôi xin được tŕnh bày
cho quí bạn đọc bài viết của chúng tôi thành từng
tiết mục như sau :
1/- Thành
lập ḍng năm 1670
2/- Những
thay đổi đáng kể từ khi thành lập cho đến
đầu thế kỷ 20
3/- Sau bộ
giáo luật năm 1917
4/- Sau
công đồng Vaticanô II và Nhóm Nghiên Cứu
Chúng tôi
không có ư đi vào những chi tiết, v́ chỉ mong phác thảo
lại nơi đây một vài cải cách tương đối
quan trọng nơi ḍng Mến Thánh Giá tại Việt Nam mà
thôi. Sau cùng hết, những ghi chú cuối bài viết sẽ
giúp quí bạn t́m lại các tài liệu mà chúng tôi xử dụng
để soạn thảo bài này.
1- Thành
lập ḍng năm 1670
Từ
thế kỷ thứ 17 cho đến thế kỷ thứ 20, thái độ chính thức của
Toà Thánh trong vấn đề các ḍng nữ là một thái
độ ḍ dẫm, quá thận trọng, nên không mấy
được rơ ràng, và nhất là không đáp ứng mau lẹ
được nhu cầu đạo đức nẩy sinh
trong Giáo Hội.
Khi
đức cha Lambert de
Tại
sao thế ?
Câu trả
lời rất giản dị là vào thời đó, chỉ
được Toà Thánh coi là nữ tu các phụ nữ có lời
khấn trọng thể (voeux solennels) trong các đan viện
kín (monastère) mà thôi. C̣n những chị em nào chỉ có lời
khấn đơn (voeux simples), như gập thấy ngày
nay, th́ chưa đủ để được coi là nữ
tu.(1)
Nhưng
nhu cầu trong Giáo Hội thế kỷ 17 c̣n cần những
phụ nữ phục vụ trực tiếp tha nhân, đặc
biệt là người nghèo, trong ḷng xă hội. Hai trường
hợp điển h́nh nói lên sự khác biệt và xung đột
giữa nhu cầu Giáo Hội và lập trường của
Toà Thánh trong vấn đề này phải kể đến
trường hợp ḍng Thăm Viếng (les Visitandines) của
thánh François de Sales và ḍng Nữ Tử Bác Ái (les Filles de
1.1. Ḍng Thăm Viếng :
một thất bại.
Thánh
François de Sales, với sự cộng tác của thánh nữ
Chantal, lập nên ḍng Thăm Viếng năm 1610. Ư định
của thánh nhân là tạo thành một nhà ḍng nữ chỉ
có lời khấn đơn và không có nội cấm, mà
đời sống cầu nguyện sẽ gắn liền
với công việc phục vụ bệnh nhân. Ngài muốn
tạo ra một đời sống tu tŕ thích ứng cho các
phụ nữ không hợp đời sống trong đan viện
kín.
Tuy
nhiên, năm 1618, khi các nữ tu Thăm Viếng của ngài
nhận được bản Hiến Chương do giáo
quyền phê chuẩn vĩnh viễn th́, hỡi ơi, họ
buộc phải làm lời khấn trọng thể và phải
sống khép ḿnh vào tu viện kín cổng cao tường. Thánh
François de Sales đón nhận chuyện xảy đến
như một thất bại chua chát đối với ư
định lập ḍng ban đầu của ngài.
Chuyện
đă xảy ra như vậy, tất cả là do vị giám
mục nghiệt ngă địa phận Lyon, đức cha
Marquemont, muốn đem áp dụng triệt để những
phán quyết của công đồng Tri-đen-ti-nô là bắt
buộc ai muốn làm nữ tu phải sống trong đan
viện kín, không được ra khỏi nội cấm. Vị
giám mục này đă thành công trong chương tŕnh thay đổi
ḍng Thăm Viếng. Nhưng sau này, người mà giám mục
thành Lyon ấy đă "sửa sai" lại được
Giáo Hội tuyên phong "Thánh Tiến Sĩ" : François
de Sales (+1622).
(Đấng
sáng lập ḍng Mến Thánh Giá có ḷng sùng mộ cách riêng thánh
François de Sales và thánh nữ Chantal).
1.2. Ḍng Nữ Tử
Bác Ái : một thành công.
15
năm sau chuyện ḍng Thăm viếng, năm 1633 tại
Paris, thánh Vinh-Sơn cùng với thánh nữ Louise de Marillac
thành lập ḍng Nữ Tử Bác Ái.
Cũng
như thánh François de Sales, thánh Vinh-Sơn không hề muốn
các "con gái" của ngài trở nên các nữ tu đan
viện. Bởi thế, ngài không t́m tạo nên cho các con cái của
ngài một thứ đời tu chính thức theo luật
Giáo Hội lúc đó; ngài chỉ đề ra một lối
sống trung gian, nằm giữa lối sống giáo dân
thường và lối sống tu sĩ cổ điển.
Và đó là cả một sự mới mẻ vào thời kỳ
đó.
Nhân dịp
này, thánh nhân đă viết ra một lời mà lịch sử
Giáo Hội sẽ cẩn thận ghi nhớ :
"Các chị em sẽ lấy
giường bệnh nhân làm tu viện, lấy pḥng trọ
làm pḥng tu, lấy nhà thờ giáo xứ làm nhà nguyện, lấy
đường phố làm nội vi, lấy đức vâng
lời làm nội cấm, lấy ḷng kính sợ Thiên Chúa làm
song cấm và lấy đức khiêm nhường làm
khăn voile tu phục".
Các Nữ
Tử Bác Ái của ngài không làm lời khấn trọng thể,
chỉ có lời khấn đơn mà thôi. Các chị cũng
không mang tu phục đặc biệt nào, ăn mặc hoàn
toàn như các phụ nữ b́nh thường thời ấy.
Bởi đó, giáo luật lúc ấy không coi các chị Nữ
Tử Bác Ái là nữ tu, chỉ xem như các phụ nữ
thuộc hội đạo đức mà thôi. Tuy nhiên, thánh
Vinh-Sơn đă thành công trong ư định lập ḍng của
ngài là có các nữ Kitô hữu đạo đức, lo phục
vụ người nghèo và bệnh nhân. Ngài có vẻ mong
được yêu thương và phục vụ hơn là
được nh́n nhận.
1.3. Ḍng Mến
Thánh Giá tại Việt Nam : năm 1670.
Tháng Tám
năm 1669, đức cha Lambert de
Như
thế, ḍng Mến Thánh Giá đă được giám mục
Lambert de
Khi thành
lập ḍng Mến Thánh Giá, đức cha ban ra một
"Hiến Chương" để các chị biết "lấy Thánh Giá Chúa làm việc
suy niệm suốt cả đời ḿnh cùng mỗi ngày
thông phần vào các sự đau khổ của Chúa".
Ngài nêu ra cho các chị 5 công tác cụ thể phải thực
hiện, hoàn toàn có tính cách truyền giáo. Sau đó, ngài đặt
để cho các chị 14 điều phải giữ
như nội quy nhà ḍng. Ngài dạy trong điều Một
:
"Ai là kẻ thấy
ḿnh được gọi vào Hội ḍng này phải làm ba lời
khấn quen thuộc là khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời,
và chỉ được chấp nhận sau hai năm thử
luyện".
Ngoài 3 lời
khấn ḍng ra, ngài xác định rơ ở điều
Năm rằng :
"Các chị em
được miễn khỏi giữ luật nội cấm
do sự bó buộc đặc biệt là các chị em cần
chuyên tâm vào việc rỗi linh hồn của tha nhân theo thể
lệ Hội ḍng của ḿnh".
Đức
cha không áp đặt một tu phục đặc biệt
nào cho các chị; do đó, các chị ăn mặc như các
phụ nữ thường dân thời ấy.
Một
năm sau đó, năm 1671, đức cha Lambert de
Tóm lại,
các chị Mến Thánh Giá không làm lời khấn trọng thể
cũng không sống trong nội cấm; trái lại, các chị
chỉ có lời khấn đơn và sống giữa ḷng
xă hội.
Thánh
François de Sales đă lập các chị ḍng Thăm Viếng
để phục vụ bệnh nhân, thánh Vinh Sơn lập
các Nữ Tử Bác Ái để phục vụ người
nghèo; c̣n đức cha Lambert de
Măi
đến cuối thế kỷ thứ 19, Toà Thánh mới
chính thức nh́n nhận là để trở thành nữ tu
đích thực, chỉ cần ba lời khấn đơn
là đă đủ : "Sắc lệnh Ecclesia Christi ngày
11/8/1889". Từ đó, để trở thành nữ tu
theo luật Giáo Hội, không c̣n cần lời khấn trọng
thể và phải sống trong đan viện kín như
trước nữa.
Theo cái
nh́n giáo luật th́ như thế. C̣n trong thực tế, các
nữ tu đă làm lời khấn đơn th́ vẫn
được mọi người coi là nữ tu, kể cả
các bậc chủ chăn, cho dù ngay cả khi họ không mang
tu phục đặc biệt nào như trường hợp
các nữ tu Mến Thánh Giá tại Việt Nam cho đến
thế kỷ thứ 20.
Như
chúng ta đă thấy, v́ có sự khác biệt giữa đời
sống thực tế trong Giáo Hội và thái độ chính
thức của Toà Thánh, khi đọc các sử liệu liên
quan tới nữ tu Mến Thánh Giá tại Việt Nam,
đôi khi chúng ta sẽ gặp những từ ngữ vừa
mập mờ, vừa lẫn lộn, do các vị thừa
sai ngoại quốc để lại. Đặc biệt
các từ "đan viện" (monastère), "tu viện"
(couvent), "cộng đoàn tu" (communauté), "nhà ở"
(maison), th́ chỉ là một thứ nơi các thư từ
và các bản báo cáo của các thừa sai nói trên. Chỉ có từ
"nữ tu" (religieuse) là tương đối
được xử dụng một cách nhất thống
mà thôi.
Chúng tôi
xin trích dẫn lại vài lời sau đây để có cái
nh́n chung về t́nh trạng "giáo luật" của những
nữ tu Mến Thánh Giá tại Việt Nam từ khi thành lập
cho đến đầu thế kỷ thứ 20 :
Vào
năm 1835:
"Các nữ
tu, gọi là Mến Thánh Giá, (...) không hề giữ nội
cấm, ngay cả vào những thời kỳ mà đạo
không hề bị bách hại. Hội ḍng của họ
đă được thành lập trên một thế kỷ
rồi; thường thường, họ không làm lời khấn,
và sống nhờ mồ hôi của ḿnh, làm ruộng từ
sáng đến chiều hoặc lo buôn bán gánh gồng trên
lưng...".(4)
Đức
cha Retord Liêu :
"Mỗi nhà
các nữ tu có một bà bề trên riêng, và chính giám mục là
bề trền tổng quyền của hội ḍng. Các chị
được Toà Thánh nh́n nhận; nhưng các chị chẳng
làm lời khấn, nếu không là lời khấn đơn
và tạm (mais elles ne font pas de voeux, sinon simples et
temporaires)".
(Thư tháng Giêng 1846).(5)
2- Những
thay đổi đáng kể từ khi thành lập cho đến
đầu thế kỷ 20
Đấng
sáng lập ḍng Mến Thánh Giá, đức cha Lambert de
Từ
ngày được thành lập cho đến thế kỷ
20, sự hiện hữu của ḍng Mến Thánh Giá tại
Việt Nam đă chịu ảnh hưởng trực tiếp
và mạnh mẽ từ hai sự kiện lịch sử sau
:
a, Hội Thừa Sai Paris :
Ngoài các
giám mục và các linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris
ra, h́nh như các chị Mến Thánh Giá ít được các
giám mục hoặc linh mục khác nâng đỡ.
(Đương nhiên, chúng ta không nói tới các linh mục và
các thày giảng Việt Nam nơi đây là những vị
yêu mến và nâng đỡ các chị rất nhiều).
Điển h́nh là trong những năm mà địa phận
Đàng Trong do đức cha Perez (1691-1727) và đức cha
Alexandris điều khiển (1727-1743), là hai giám mục không
thuộc Hội Thừa Sai Paris, chẳng ai c̣n nói tới
các chị nữa. Nhưng đặc biệt nhất là
trường hợp địa phận Đông Đàng Ngoài
(Hải Pḥng) từ khi được trao cho các cha ḍng
Đa Minh người Tây Ban Nha điều khiển mà chúng
ta sẽ nói đến ở sau.
Mặt
khác, khi chính Hội Thừa Sai Paris gặp khủng hoảng
vào những năm 1716-1789, ḍng Mến Thánh Giá cũng phải
chịu hậu quả gián tiếp từ các vị
"đỡ đầu" của ḿnh.
b, Những cuộc bách đạo :
Cùng
chung số phận với toàn thể Giáo Hội Việt
Nam, ngay từ ban đầu ḍng Mến Thánh Giá đă phải
chịu những khó khăn do vua quan ghét đạo gây ra. Chỉ
7 năm sau ngày thành lập, nhà ḍng tại An-Chỉ (Đàng
Trong) đă bị quan quân triều đ́nh phá tan tành. Rồi
suốt thế kỷ 18 và 19, các chị đă chẳng bao
giờ được yên thân lâu dài. V́ hoàn cảnh khó
khăn đó, ḍng Mến Thánh Giá không thể nào có được
những cải cách đáng kể suốt hai thế kỷ
trên.
Vào ngày
khấn trọn đời của 61 chị Mến Thánh Giá
tại Phát Diệm (ngày 01/02/1931), là chuyện khấn trọn
đời đầu tiên trong lịch sử ḍng Mến
Thánh Giá tại Việt Nam,
đă có lời nhận xét rằng : "Những cuộc bách đạo, ḍng dă hơn hai
thế kỷ, đă làm cản trở bước tiến
của các chị. Và các vị thừa sai, phần th́ quá ít ỏi
phần th́ quá nhiều công việc, không thể chăm lo
cho hội ḍng như hội ḍng cần đến để
tiến triển trên đường tu tŕ. Từ chỗ
đó, hội ḍng hơi bị bỏ rơi; và cho tới
thời kỳ sau này, các thành phần trong hội ḍng, ngoài
việc sống chung và tuân thủ các luật lệ vừa
đơn giản lại vừa ít ỏi, chẳng có mấy
chi là nữ tu, cũng chẳng có lời khấn cũng chẳng
có tu phục".(6)
2.1. Vào cuối thế
kỷ 17 :
Ḍng Mến
Thánh Giá tại Đàng Ngoài do đức cha Deydier Phan và
đức cha Bourges Gia điều khiển phát triển
tương đối khả quan : ba mươi năm sau
ngày thành lập, người ta đă tính được tới
100 nữ tu tại đây rồi. Ngoài ra, dưới quyền
của hai vị giám mục nói trên, không hề có sự thay
đổi nào quan trọng.
Trái lại,
tại Đàng Trong, sau khi đức cha Lambert qua đời,
vị đầu tiên đă t́m cải tổ luật ḍng Mến
Thánh Giá là cha Jean de Courtaulin. Ngài đ̣i hỏi các nữ tu phải
sống cực kỳ khắc khổ. Các chị trẻ th́
vâng phục, c̣n các chị lớn tuổi th́ nhất định
chỉ vâng theo luật lệ mà đức cha Lambert đă
ban mà thôi. Sau cùng, vị thừa sai này hiểu ra rằng với
tư cách "cựu cha chính"(7),
ngài không có quyền thay đổi luật ḍng được.(8)
Cũng
tại Đàng Trong, sau cha Jean de Courtaulin là cha Pierre Le Noir cũng
có ư định thay đổi luật ḍng tại Quảng
Ngăi, nhưng đă gặp phản kháng triệt để của
các chị Mến Thánh Giá.(9)
2.2. Các cha Đa
Minh Tây Ban Nha và các chị Mến Thánh Giá Việt Nam :
Địa
phận Đàng Ngoài được chia ra hai địa phận
từ năm 1679 : Tây Đàng Ngoài (Hà Nội) và Đông
Đàng Ngoài (Hải Pḥng). Khi giám mục Đông Đàng Ngoài
là đức cha Deydier Phan qua đời (ngày 01/7/1693), địa
phận này được trao cho các thừa sai ḍng Đa
Minh người Tây Ban Nha điều khiển. Và các chị
Mến Thánh Giá tại đây sẽ gặp khó khăn ngay
trong chính nội bộ địa phận của ḿnh.
Chuyện
là các thừa sai Đa Minh người Tây Ban Nha đă t́m
cách biến đổi các chị em Mến Thánh Giá thành nữ
tu ḍng Ba Đa Minh. Một trong các điểm mà các thừa
sai này đem ra áp dụng là bỏ luật kiêng thịt.
Tài liệu
lịch sử (năm 1709-1710) ghi lại rằng :
"Trong khu vực
các cha ḍng Đa Minh, có ba nhà các nữ tu mà người ta gọi
là các chị em Mến Thánh Giá. Tất cả ba nhà đều
được lập nên do đức cố giám mục
Bêritê (Lambert de
Cha Jean de
Sainte-Croix đă thi hành ư đồ trên đối với nhà
ḍng nằm trong làng
Cha Pierre de Sainte
Thérèse là người kế nhiệm cha Jean de Sainte-Croix trong
chức vụ bề trên các cha Đa Minh và thường
xuyên cư ngụ tại làng Kẻ Bùi nói trên, ra sức thi
hành cũng một sự ấy đối với các nữ
tu tại nơi đó. Và để thành đạt chuyện
này, ngài khuyến khích họ ăn thịt. Đôi khi, ngài
c̣n gửi cả thịt thà cho họ mà nói họ có thể
yên tâm ăn thịt...".(10)
Các cha
Đa Minh muốn các chị Mến Thánh Giá trở nên nữ
tu ḍng Ba Đa Minh là chuyện dễ hiểu thôi; chỉ tiếc
là cách thức đối xử với các chị nơi một
ít cha Đa Minh người Tây Ban Nha th́ không mấy ǵ là cao
thượng :
"Các vị bề
trên Đa Minh trực tiếp hay gián tiếp làm khó dễ
cho các nữ tu Mến Thánh Giá. Người ta cằn nhằn
các chị, người ta đe đốt nhà các chị,
người ta cho người đuổi các chị ra khỏi
nhà và lấy của cải của các chị, người
ta xúi dục các người nhà hay các thày giảng đánh
các chị ở nửa trên người bị lột trần".
Nội
vụ được tấu tŕnh lên Toà Thánh xin giải quyết
vào những năm 1764 và 1786. Toà Thánh đă lên tiếng để
bảo vệ "tự do đi tu"; nhưng tại
địa phương, chuyện đâu lại vào đấy
mà thôi.(11)
2.3. Vào thế kỷ
18 tại Đàng Ngoài :
Các nữ
tu Mến Thánh Giá ở Đàng Ngoài tương đối vững
vàng hơn các chị ở Đàng Trong, đặc biệt
là nhờ các giám mục địa phận Tây Đàng Ngoài
(Hà Nội) đều là các vị thuộc Hội Thừa
Sai Paris.
Đời
sống các chị rất nghèo nàn, thường là sống
nhờ ruộng đất. Y phục của các chị th́
vẫn như mọi phụ nữ địa
phương, nhưng "chị
em phải mặc áo vải, chẳng nên mặc áo vóc lĩnh,
sồi nái tơ ba, cùng chẳng nên dùng của ǵ tơ sốt,
mà nhuộm th́ chẳng nên nhuộm đỏ, hay là mùi lịch
sự, phải nhuộm mùi thâm hay là mùi nào xám cùng bồ nâu
nhặt nhặt vậy".
C̣n về
việc khấn hứa, các giám mục thường chỉ
cho các chị được khấn khi đă lớn tuổi.
Các lời khấn ở đây là các lời khấn
đơn và chỉ khấn tạm một năm mà thôi;
ngoài ra, những ai không được khấn th́ có thể
làm "lời dốc ḷng" :
"... ( tôi dốc ḷng, hay là tôi khấn
) bấy nhiêu sự sau này :
- một là ở
cho khó khăn trọn đời, chẳng lấy của ǵ
làm của riêng tôi,
- hai là giữ
ḿnh sạch sẽ trọn đời,
- ba là vâng nhời
chịu lụy Đức vít-vồ (mà) Đức thánh papa
cho coi sóc phần linh hồn bổn đạo nước
Tụng Kinh này, cùng thầy cả sacerdote nào coi sóc nơi
chúng tôi ở, cùng chịu lụy mụ tôi, cùng mụ ngày
sau bề trên cho coi sóc cửa nhà chúng tôi...".(12)
Vào
năm 1787, Đàng Ngoài có tất cả là quăng 500 nữ tu,
sống trong 25 nhà ḍng.
Năm
1795, công đồng Kẻ Vĩnh ra thêm cho các chị 11
điều luật phải giữ mà trọng tâm là việc
tiếp xúc với phái nam, cách riêng với những người
"Nhà Đức Chúa Trời".
2.4.
Thế kỷ 18 tại Đàng Trong :
Các nữ tu tại địa phận
Đàng Trong th́ kém may mắn v́ hai giám mục Pérez (1691-1728)
và Alexandris (1728-1738) không ngó ngàng chi nhiều tới các chị.
Sự hiện diện của Mến Thánh Giá
tại đây trở nên rất khiêm tốn. Thậm
chí, ngay cả tên gọi "Amantes de
Một vài nhà ḍng tồn tại th́ bị
phá hoại hoàn toàn vào kỳ bắt đạo năm 1750,
lúc tất cả các thừa sai ngoại quốc bị trục
xuất khỏi xứ Đàng Trong sang Ma-Cao. Sau
những năm biến loạn, nhờ công của đức
cha Piguel (+1771) và đặc biệt của cha Nicolas Duê
(người gốc Đàng Ngoài), một số nhà ḍng
được tái thiết lại cho các chị.
Nhưng cải cách quan trọng nhất cho ḍng Mến Thánh
Giá phải kể đến công lao của hai giám mục
Pigneaux Bá Đa Lộc (+1799) và Labartette (+1823) :
Năm 1786, sau khi tới Đàng Trong, cha
Labartette lập ra hai cộng đoàn nữ tu phía Quảng
Trị. Ngài không muốn gọi các chị là "Mến
Thánh Giá" v́ có một số điều trong luật ḍng
không giống như luật ḍng Mến Thánh Giá, chẳng hạn
không buộc phải kiêng thịt quanh năm. Ngài đi hỏi
ư kiến giám mục của ngài là đức cha Bá Đa Lộc.
Đức cha không hề phản đối sự cải
tổ lề luật này để thích ứng với con
người cùng hoàn cảnh; nhưng đức cha lại
không muốn tên gọi nào khác hơn tên gọi "Mến
Thánh Giá". Đó đă là một thay đổi quan trọng
và chính thức nhất từ khi ḍng Mến Thánh Giá
được thành lập năm 1670 và 1671 tại Việt
Nam. Chính thức, là v́ do thẩm quyền giám mục địa
phận.
2.5.
Thế kỷ 19 :
Đầu thế kỷ thứ 19, Giáo Hội
công giáo cũng như ḍng Mến Thánh Giá tại Việt Nam
được hưởng một ít năm b́nh yên, sau
đó là thời kỳ bắt đạo tàn khốc dưới
ba triều đại Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự
Đức, lại thêm phong trào Văn Thân "b́nh Tây sát Tả"
nữa.
Trong khung cảnh đó,
không thể có sự cải tổ quan trọng nào cho ḍng Mến
Thánh Giá được. Trái lại,
các nữ tu đă dùng chính mạng sống ḿnh để làm
chứng cho Chúa. Nữ tu tử đạo đầu
tiên là chị Maria-Madalêne Nguyễn Thị Hậu, thuộc
cộng đoàn Nhu Lư, qua đời tại Huế ngày 29
tháng 1 năm 1841, mười ngày sau khi được giáo hữu
giúp trốn khỏi chốn bị lưu đầy trở
về. Hai chị Agnès Soạn (phó bề trên nhà Láng Mun, Qui
Nhơn) và chị Anna Trị (người Phan-Rang, thuộc
nhà ḍng Láng Mun) bị kết án tử xiết cổ tại
Tại Đàng Ngoài, năm 1888, đức
Cha Puginier Phước (+1892) lại phải ra 5 điều
kỷ luật nhắc nhở cho các nữ tu về việc
tiếp xúc với nam giới và việc ra ngoài đi buôn bán
cùng việc biếu hay nhận quà cáp.(14)
Điều đáng mừng nhất cho
tương lai ḍng Mến Thánh Giá tại Việt Nam là vào cuối
thế kỷ này, lúc mà những cơn bách đạo khủng
khiếp chấm dứt th́ cũng là lúc mà Toà Thánh nh́n nhận
rằng ba lời khấn đơn, khấn tạm hay khấn
vĩnh viễn, là đă đủ để trở thành nữ
tu theo giáo luật (sắc lệnh "Ecclesia Christi" ngày
11/8/1889).
3- Sau bộ giáo luật năm
1917
Thế kỷ 20 khởi đầu cho
ḍng Mến Thánh Giá tại Việt Nam với 14 điều
do công đồng Kẻ Sặt quy định. Theo đó,
thiếu nữ 15 tuổi mới được vào nhà ḍng,
c̣n nữ tu trên 40 tuổi mới được đi làm
việc tông đồ ngoài đời là rửa tội cho
trẻ con hấp hối. Riêng về y phục, "toà công đồng chẳng
muốn đổi sự ǵ trong cách chị em ăn mặc,
một dạy phải mặc áo mùi thâm hay là mùi nâu khiêm
nhường đơn sơ chẳng pha sự ǵ điệu
dáng phần đời" (điều 10).
Những năm đầu thế kỷ,
các bản luật ḍng được in ấn và phổ biến
rộng răi. Theo hiểu biết của chúng tôi, bản in
đầu tiên là bản "Bổn luật các nhà Phước
địa phận B́nh Định", tại Làng Sông
năm 1905; sau đó là bản "Phép nhà chị em Mến
Câu Rút Đức Chúa Jêsu", tại Kẻ Sở năm
1907; "Phép nhà ḍng Mến Câu Rút địa phận
Thanh" năm 1924 tại Hồng Kông.
Sau cùng, năm 1917 bộ giáo luật ra
đời, chỉ dẫn rơ ràng về đời tu tŕ với
ba lời khấn đơn.
3.1.
Sau bộ giáo luật 1917 :
Tiếp theo bộ giáo luật trên,
năm 1921 được in tại cơ sở của Hội
Thừa Sai Paris tại Hồng Kông quyển sách "Khấn
hứa lư giải cho kẻ đă dâng ḿnh cho Đức Chúa
Lời trong nhà ḍng", dầy 107 trang, không mang tên tác giả.
Trong đó, ba lời khấn ḍng và đời sống tu tŕ
được cắt nghĩa rơ ràng cho các nữ tu Mến
Thánh Giá.
Việc khấn hứa tương đối
là việc mới mẻ cho một số nữ tu nên quyển
sách này đă giải nghĩa : "Đừng
lẫn sự khấn hứa với sự dốc ḷng; khi
đă dốc ḷng giữ điều ǵ tuy rằng phải
ra sức giữ mặc ḷng, nhưng mà nếu không giữ th́ chẳng có tội
ǵ, bằng đă khấn hứa thật sự mà không giữ
th́ có tội" (trang 6).
Vài năm sau, đức cha Cooman Hành
(+1970), địa phận Phát Diệm, xuất bản quyển
"Luật phép nhà ḍng nữ khấn đơn" (Hồng
Kông 1924, 105 trang) :
"Có nhiều sách dẫn đàng nhân
đức trọn lành các người nhà ḍng hằng nhờ
lấy cho được thêm ḷng sốt sắng kính mến
Chúa cách riêng, song cũng có khi đi đàng nhân đức
không được chắc chắn v́ không cứ lề lối
Hội Thánh đă chỉ cho các người nhà ḍng. Cho nên
đă nhặt lấy những điều Toà Thánh đă truyền
trong bộ luật mới và ít nhiều lời các thày lư
đoán dạy cho các người nhà ḍng nữ khấn
đơn thuộc về Bề Trên địa phận, mà
tóm lại trong bản này, để cho các kẻ vào nhà ḍng ấy
được biết tỏ phải ăn ở cho xứng
đáng đấng bậc ḿnh là thể nào..." (Lời tựa).
Trong quyển sách này, đức cha đă
cắt nghĩa rất rơ ràng :
"Hỏi : Phải có những sự
ǵ mới đáng Hội Thánh nhận là thật người
nhà ḍng ?
"Thưa :
1, Phải vào nhà ḍng nào đấng Bề
Trên có quyền trong Hội Thánh đă cứ phép mà ưng nhận.
2, Phải dốc ḷng giữ luật phép
riêng nhà ḍng ấy.
3, Phải khấn trước mặt Hội
Thánh, hoặc khấn trọn đời hay là khấn tạm,
nếu khấn tạm, khi hết hạn phải khấn lại
ngay.
4, Phải có ư đi đàng nhân đức
trọn lành. Có được đủ bấy nhiêu điều
th́ mới đáng gọi là người nhà ḍng thật"
(trang 5).
Từ thời kỳ này, các nữ tu Mến
Thánh Giá bắt đầu mang y phục riêng gọi là tu phục.
Ví dụ trong địa phận Thanh Hoá : "Điều 60 : Kẻ mới vào nhà ḍng này phải
mặc áo như thường, cho đến khi bề trên
cho mặc áo nhà ḍng. Các chị em đang tập và các chị
em đă khấn phải mặc áo thâm dài. Lại các chị
em đă khấn th́ đội khăn thâm v́ là dấu riêng
chỉ các chị em đă khấn trong nhà ḍng này; c̣n các chị
em đang tập th́ phải đội khăn trắng".
Vào năm 1932, tại Việt Nam có 12
địa phận :
- (miền Bắc) Hà Nội, Hải
Pḥng, Vinh, Bùi Chu, Bắc Ninh, Hưng hóa, Phát Diệm, Thanh Hoá
và
- (miền Nam) Qui Nhơn, Sài G̣n, Huế,
Kontum.
Trong các ḍng Mến Thánh Giá địa phận,
th́ xem ra các chị Phát Diệm là cải tổ để thích
ứng theo giáo luật mới mau lẹ nhất, nhờ sự
tận t́nh lưu tâm của giám mục địa phận
là đức cha Marcou Thành và sau đó là đức cha Cooman
Hành.
Trái lại tại địa phận Huế,
sau khi khi có bộ giáo luật 1917 và để đáp ứng
nhu cầu giáo dục trẻ em, thay v́ cải tổ thích
nghi ḍng Mến Thánh Giá, đức cha Allys Lư (+1936) lại
dùng một số các chị Mến Thánh Giá để lập
một ḍng nữ mới năm 1921 gọi là "Con Đức
Mẹ Vô Nhiễm".
Cũng vào thời kỳ này, ước
mơ ban đầu của đức cha Lambert de
3.2.
Sau cuộc di cư 1954 :
Hơn 65% những người di cư từ
Bắc vào Nam sau Hiệp Định Genève 1954 là người
công giáo. Những nữ tu Mến Thánh Giá di cư hợp
thành những nhà ḍng mang tên địa phận gốc của
họ : Hà Nội, Phát Diệm, Thái B́nh (= Tân Lập), Thanh
Hoá và Bắc Ninh.
Hai trường hợp đặc biệt
là Bùi Chu và Hải Pḥng :
Về Bùi Chu, ngay từ năm 1946, đức
cha Hồ Ngọc Cẩn đă dùng các nữ tu ḍng Ba Đa
Minh và nữ tu Mến Thánh Giá để lập ra một
ḍng nữ mới là ḍng Con Đức Mẹ Mân Côi Bùi Chu rồi.
C̣n lại 9 chị Mến Thánh Giá là nhất định
không vào ḍng mới lập, ở lại làm Mến Thánh Giá
mà thôi. Sau đó, đức cha Phạm Ngọc Chi đă cải
tổ ḍng Mến Thánh Giá Bùi Chu theo giáo luật mới;
nhưng đến năm 1966 th́ ngài lại biến ḍng này
thành ḍng Trinh Vương.
Về Hải Pḥng, các chị Mến
Thánh Giá đă chịu khó khăn ngay từ cuối thế kỷ
17 khi địa phận được trao cho các cha Đa
Minh người Tây Ban Nha trông coi như đă nói. Với thời
gian, chẳng c̣n ai nói đến ḍng Mến Thánh Giá địa
phận Hải Pḥng nữa. Trong cuộc di cư 1954, chỉ
thấy có 4 nhà Phước Đa Minh thuộc Hải Pḥng
vào vùng Biên Hoà mà thôi. Vào năm 1955-1956, khi ḍng nữ Đa
Minh di cư nguyên thuộc Hải Pḥng, Bắc Ninh, Thái B́nh
và Lạng Sơn bắt đầu cải tổ th́ một
số chị tách ra và cùng với một vài nữ tu Mến
Thánh Giá gốc địa phận khác (như Hà Nội) sống
chung thành ḍng Mến Thánh Giá Hải Pḥng tại Biên Hoà. Ḍng
được đức Cha Nguyễn Văn Hiền chuẩn
nhận ngày 10/6/1959. Phải chăng ơn tu tŕ ḍng Mến
Thánh Giá là một ơn rất đặc biệt mà Thiên
Chúa đă ban cho Việt Nam chúng ta ?
(Năm 1995, các ḍng di cư nói trên, theo yêu
cầu của Toà Thánh, đă mang tên nơi trụ sở
chính của ḍng tọa lạc. Do đó, Mến Thánh Giá Hà Nội
thành Khiết Tâm, Phát Diệm thành G̣ Vấp, Thanh Hoá thành
Đà Lạt, Bắc Ninh thành Thủ Đức và Hải
Pḥng thành Bắc Hải).
4- Sau công đồng Vaticanô II và
Nhóm Nghiên Cứu
Như chúng ta đă thấy, sau khi bộ
giáo luật 1917 ra đời, các ḍng Mến Thánh Giá tại
Việt Nam lần lượt cải tổ thích nghi theo
tinh thần mới của Toà Thánh. Công cuộc canh tân này phần
lớn là do chính các giám mục đảm nhiệm vào những
năm sau đó.
Vào thời kỳ sau này, công đồng
chung Vaticanô II đă đem lại một luồng sống mới
trong Giáo Hội. Công đồng kết thúc vào năm 1965 và
vào năm 1983, tức 18 năm sau, th́ bộ giáo luật hiện
hành ra đời. Các hội ḍng Mến Thánh Giá tại Việt
Nam cải tổ để thích nghi theo tinh thần công
đồng Vaticanô II như thế nào ?(15)
Với luồng gió canh tân do Công đồng
Vaticanô II đem lại, cụ thể qua sắc lệnh
« Perfectae Caritatis - Canh tân thích nghi Ḍng Tu », các ḍng
tu trong Giáo Hội nói chung, và ḍng Mến Thánh Giá Việt Nam
nói riêng, đă không ngừng nỗ lực trở về nguồn,
về với nguyên hứng ban đầu của Đấng
Sáng lập.
Lễ kỷ niệm Đệ Tam Bách
Chu niên thành lập Ḍng Mến Thánh Giá năm 1970, tại tu
viện Mến Thánh Giá Chợ Quán, của 14 hội ḍng Mến
Thánh Giá miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào là một
sự kiện mang ư nghĩa lớn. Dịp này, một bản
dự thảo Hiến Pháp in ronéo cho ḍng Mến Thánh Giá của
cha Luca Huy được đề nghị ra để
tham khảo, và việc thành lập « Học viện liên
ḍng Mến Thánh Giá » cũng được Đại Hội
biểu quyết.
Nhưng với biến cố 1975, mọi
việc được xếp lại, tưởng chừng
như chấm dứt. Mỗi hội ḍng, tuỳ hoàn cảnh
và điều kiện cho phép, đă âm thầm ṃ mẫm t́m
hướng sống đời tu và sứ vụ tông đồ
của hội ḍng ḿnh với ḷng luôn thao thức thực hiện
việc canh tân pháp chế, nhất là từ khi bộ giáo luật
1983 và các tông thư và các văn kiện liên quan tới đời
sống tu tŕ ra đời.
4.1.
Nhóm « Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá »
chào đời :
Tại địa phận thành phố Hồ
Chí Minh, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh
thao thức : "Tôi luôn cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần
gửi tới cho tôi một linh mục say mê nghiên cứu và
có ḷng thương mến Đức Cha Lambert để
giúp tôi cho bảy hội ḍng Mến Thánh Giá t́m hiểu Đấng
Sáng lập, canh tân luật tu trong hướng trở về
nguồn".
Trong lúc đó, vào năm 1985, cha
Sự quan tâm của cha
Buổi họp đầu tiên của
« Nhóm Nghiên Cứu » diễn ra ngày 25/08/1985 và cha
4.2.
Sinh hoạt và sự h́nh thành quyển hiến
chương :
Sau khi thành lập, Nhóm khẩn
trương bắt tay vào việc ngay, qua các giai đoạn :
a. Giai đoạn 1 : Soạn tiểu
sử Đấng Sáng Lập và linh đạo (1985-1987)
Đầu tiên Nhóm sưu tập tài liệu,
phiên dịch các bút tích của Đấng Sáng lập với
sự cộng tác của học giả Phạm Đ́nh
Khiêm. Kết quả, khoảng giữa năm 1987, Nhóm đă
soạn được tập Tiểu Sử kèm với 8
bút tích, tất cả được sưu tầm từ
các sử liệu của hai linh mục sử gia Adrien Launay
và Jean Guennou thuộc Hội Thừa Sai Paris.
Dựa trên Tiểu Sử và số bút
tích đó, cha cố vấn hướng dẫn chị em học
tập, suy niệm và soạn ra tập « Linh Đạo
b. Giai đoạn 2 : Soạn thảo
Hiến Chương (1987-1990)
Từ những một số di sản
tinh thần của Đấng Sáng Lập đă được
sưu tầm và tổng hợp lại, cộng với hai
nguồn tài liệu khác là Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo
hội, đặc biệt bộ giáo luật mới, cha cố
vấn giúp các nữ tu soạn nháp Bản Dự Thảo Hiến
Chương. Lúc này có sự tham gia tích cực của nhiều
hội ḍng ngoài thành phố, đặc biệt Mến Thánh
Giá Huế, Cái Nhum và
Ngày 27/02/1990, Áp lễ Tro, ngày lịch sử,
kỷ niệm 320 năm thành lập ḍng Mến Thánh Giá Việt
Nam, tại hội ḍng Mến Thánh Giá Chợ Quán, Đức
Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh đă long trọng
ban nghị định phê chuẩn Hiến Chương
chung cho 7 hội ḍng Mến Thánh Giá tại thành phố,
để thử nghiệm trong 4 năm (sau được
gia hạn cho đến năm thứ 10). Hiến
Chương chứa đựng những yếu tố linh
đạo và pháp lư được sắp xếp rơ rệt
theo đúng quan điểm của Vaticanô II với các nét
riêng như sau : dành vị trí ưu tiên và trọng tâm cho Mầu
Nhiệm Thập Giá với 4 chiều kích hướng về
: Ba Ngôi, Gia đ́nh Nazareth, Giáo Hội và cởi mở thích ứng
hội nhập văn hóa. Tất cả đều mang nét
nhấn đặc sắc của Đấng Sáng Lập.
c. Giai đoạn 3 : 1990-1993
Từ sau ngày phê chuẩn Hiến
Chương, hằng năm, Nhóm tổ chức một hoặc
hai khoá bồi dưỡng, từ 5 đến 10 ngày dành cho
các Ban Phục Vụ Liên Hội Ḍng Mến Thánh Giá từ Bắc
chí Nam, giúp chị em học tập đời tu, thấu hiểu
tinh thần ḍng và sống liên kết càng ngày càng chặt chẽ.
Những khóa học tập như vậy đă trở thành
truyền thống hằng năm, nhằm giúp chị em củng
cố nội lực.
Trong giai đoạn này, Nhóm thực hiện
được những tiểu phẩm sau đây :
- Soạn quyển Nghi thức Ḍng Mến
Thánh Giá (1991).
- Soạn quyển Giải thích phần
Linh đạo của Hiến Chương (1993).
- Soạn Quy chế Mến Thánh Giá tại
thế (1995), với ước mong làm sống lại một
trợ lực tông đồ có ư nghĩa cho Giáo hội từ
phía các giáo dân, như thời Đức Cha Lambert de
Đó là sinh hoạt của Nhóm trong 8
năm dưới thời Đức Tổng Giám Mục
Nguyễn Văn B́nh.
4.3.
Hiến Chương mới :
Năm 1998, Nhóm Nghiên Cứu cho tái bản
« Tập tiểu sử và bút tích Đức Cha Lambert de
Sau cùng, ngày 02 tháng 02 năm 2000, ngày thánh
hiến tu sĩ trong khuôn khổ Năm Thánh, kỷ niệm
330 năm thành lập ḍng Mến Thánh Giá tại Việt Nam,
ngày đánh dấu một bước ngoặt mới trong
việc canh tân luật sống cho chị em Mến Thánh Giá
của tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh, Đức
Tổng Giám Mục Phạm Minh Mẫn, vị chủ
chăn kế tục sự nghiệp của Đức Cha
Lambert de
Nhận thấy các nữ tu Mến Thánh
Giá có cùng một Đấng Sáng Lập, một tinh thần,
chung sứ vụ, phần đông các giám mục giáo phận
đă ban phép cho các hội ḍng Mến Thánh Giá thuộc quyền
được nhận quyển Hiến Chương này
như luật riêng, sau khi sửa chữa ít điều cho
phù hợp. Hiện nay có hội ḍng Mến Thánh Giá Los Angeles
(
Hướng về tương lai gần
và xa, Nhóm Nghiên Cứu cưu mang ba dự án :
1. Soạn quyển lịch sử Ḍng Mến
Thánh Giá Việt Nam, điều mà Nhóm ôm ấp từ lâu
nhưng chưa thực hiện được.
2. H́nh thành một Học viện Liên Hội
Ḍng Mến Thánh Giá. Trong tinh thần chuẩn bị, hiện
đang có một lớp Bồi dưỡng Thần học
Liên Hội Ḍng Mến Thánh Giá, kết hợp với khối
Thần học Ḍng nữ của Liên Tu sĩ thành phố.
3. Lập Liên Hiệp Ḍng Mến Thánh Giá,
bắt đầu cho tổng giáo phận thành phố Hồ
Chí Minh và khi thuận tiện cho toàn quốc.
Kết luận
Những công việc
cải tổ, canh tân, thích nghi là những sự cần thiết
mà ai ai cũng phải thực hiện
liên tục trong cuộc sống. Ḍng Mến Thánh Gia, qua các
cuộc cải tổ, vẫn luôn t́m trung thành với ơn
Thiên Chúa đă ban mà dấn thân phục vụ Giáo Hội và
xă hội chung quanh. Bàn về chuyện này, chúng tôi không thể
không thán phục thái độ sáng suốt và hiện thực
nơi thừa sai Labartette và giám mục Pigneaux Bá Đa Lộc.
Do đó, xin được trích dẫn câu chuyện này hầu
kết thúc bài viết của chúng tôi như sau : (16)
« Thư
gửi linh mục Boiret, ngày 06/01/1791 :
Về
các chị nữ tu mới thành lập của chúng tôi, các chị
mỗi ngày một đông hơn. Các chị vẫn luôn luôn
sốt mến và tuân thủ kỹ càng các luật lệ.
Đây
là nguồn gốc và cơ hội thành lập :
Khi tôi vừa
đến đây, tôi gặp gần kinh đô Huế quăng
hơn một chục phụ nữ lớn tuổi, với
một vài chị c̣n trẻ, sống chung với nhau, và
người ta gọi các chị là nữ tu. Ḍ hỏi ra th́
tôi thấy họ chẳng có luật lệ nào, chẳng có
bề trên cũng chẳng chung nhau của cải chi, mỗi
người lo làm bếp nước riêng cho ḿnh. Tôi khuyến
khích họ hăy nhận lấy luật ḍng Mến Thánh Giá. Họ
không muốn nghe nói tới chuyện ấy, người th́
nại vào tuổi đă cao, người th́ đưa ra lư
do này nọ rất là tầm thường. Quăng một ít
lâu sau th́ tôi đi lên mấy tỉnh phía Bắc mà nay tôi vẫn
c̣n đây. Tôi gặp được nhiều thiếu nữ
đ̣i bỏ thế gian mà sống theo luật ḍng. Lúc ban
đầu, tôi đă nghĩ là sẽ cho họ một tên gọi
khác v́ những thay đổi về luật lệ phải
thực hiện. Tôi hỏi ư kiến đức cha Adran
(Pigneaux Bá Đa Lộc) th́ ngài không hề phản đối
những thay đổi nhỏ mọn mà hoàn cảnh con
người và thời gian đă khiến trở nên cần
thiết ; nhưng ngài không đồng ư cho ai thay đổi
tên gọi của các chị em và vẫn muốn người
ta tiếp tục gọi các chị
Jean
Labartette, linh mục thừa sai ».(17)
Đào Quang Toản
(Mùa xuân 2000, Toulouse)
Ghi chú
1 Xem "Dictionnaire de droit
canonique", tome 4, Letouzey et Ané 1949 : "Congrégation
monastique" (J.Deshusses) và "Congrégation religieuse"
(J.Creusen sj.).
2 Xem A. Gerhards,
"Dictionnaire historique des Ordres Religieux", Fayard 1998.
3 Xem A.Launay, "Histoire de
4 "Annales de
5 "Annales de
6 "Bulletin des Missions
Etrangères de Paris", năm 1931, trang 296.
7 "Cựu cha chính"
: cha Jean de Courtaulin là đại diện của đức
cha Lambert cũng như là cha chính tại địa phận
Đàng Trong lúc đó.
8 "Mémoires du Père
Vachet" trong Kho Thư Văn của Hội Thừa Sai
Paris (sẽ viết tắt là AMEP.), tập 110, trang 185-186.
11
12 "Sách phép ḍng chị
em Mến Câu Rút Đức Chúa Jêsu", bản viết tay
vào khoảng năm 1790-1795, lưu giữ tại AMEP.,
được sao chụp lại trong "Les Amantes de
13 Nữ tu Mến Thánh Giá
tử đạo đầu tiên tên là Maria-Madalêna Nguyễn
Thị Hậu (1813-1841), chứ không phải là Lă Thị Hậu
như trong quyển "Ḍng Đa Minh trên đất Việt"
(quyển Một, trang 204) đă ghi. Có lẽ, lỗi tại
tác giả Louvet ("
14 Về "11 phép cho
ḍng" tại công đồng Kẻ Vĩnh năm 1795 và
"5 điều đức thày Phước truyền",
xem "Phép nhà chị em Mến Câu Rút Đức Chúa
Jêsu", Kẻ Sở 1907.
15 Về « Nhóm Nghiên Cứu »,
phần lớn tài liệu lấy từ bài diễn văn
của nữ tu tổng phụ trách hội ḍng Khiết
Tâm, chị Hồ Thị Quyết, đọc ngày 2/2/2000 tại
ḍng Chợ Quán.
16 Trích từ « Nouvelles
Lettres Edifiantes… », tập 8,
Paris 1823, trang 381-383.
17
Linh mục Jean Labartette
được phong giám mục hiệu toà Véren năm 1793,
phụ tá đức cha Bá Đa Lộc. Sau khi đức
cha Bá Đa Lộc từ trần năm 1799, ngài trở nên
giám quản tông toà địa phận Đàng Trong.
<< >>