Thư gửi
cha Chính
P. Joseph DAO
FRANCE
Au R.P. Joseph Đỗ Quang Chính
Thưa cha kính mến,
Hôm qua con hân hạnh nhận được
thư của cha gửi từ Thủ
Đức sang. Con cám ơn cha nhiều.
Con đă đọc hết và thường
tham khảo lại cuốn sách cha soạn :
« Ḍng Mến Thánh Giá, những năm đầu ». Con
nhận được tập sách này tại Toulouse,
trưa chúa nhật ngày 9-5-2004, do D́ Maria Hiền Chợ Quán
mang sang.
Đọc những trang do cha viết,
có những điều con tương đắc hay thắc
mắc, và có những điều con muốn t́m hiểu thêm
cho được rơ ràng hơn.
I. « Mến Thánh Giá ».
Điểm đầu tiên là danh
xưng « Mến Thánh Giá ».
Theo cha Jean Guennou, tác giả cuốn
« Missions Étrangères de Paris », (Paris, Fayard, 1986, trang 123),
th́ tên gọi này được Đức cha Lambert lấy
từ sách Gương Phúc ra :
« Cette société nouvelle serait nommée Congrégation des
Amateurs de
Con
chưa t́m ra được tài liệu nào chứng minh
điều cha Jean Guennou khẳng định.
Cha Jean
Guennou đă giúp con nhiều khi con soạn luận án cao học
thần học về Đức cha Louis Laneau. Hồi
đó, con gặp ngài thường xuyên tại Paris. Và khi con
bắt đầu để ư tới ḍng Mến Thánh Giá và
t́m hiểu lịch sử ḍng nữ này, th́ chứng bệnh
Alzheimer nơi ngài đă trở nặng và ngài rời Chủng
viện Mep ở số 128 Rue du Bac - Paris, sang sống tại
một nhà hữu dưỡng. Chính cha bề trên Chủng
viện Mep cũng bảo con chẳng nên tới thăm ngài
nữa. (Ngài qua đời ngày 7.1.2002).
Chẳng
biết có bao giờ sau này con sẽ t́m được chi
chứng minh rằng Đức cha Lambert đă lấy tên gọi
trên từ sách Gương Phúc ra không ?
Liên quan
tới tên gọi « Amantes », con được biết
có ḍng « Amantes de Marie au Pieds de
«
Cha
Charles Nerinckx từ trần ngày 12.8.1824, thọ 63 tuổi,
và được an táng trong nghĩa địa ḍng nữ
do ngài sáng lập.
Sau nữa,
trong bộ Dictionnaire des Ordres Religieux
của Abbé Migne (tome 2, Paris, éditeur Migne, 1848, colonnes 525-526), có
đề cập tới tu viện tên « Deux Amants »
trong giáo phận Rouen vào thế kỷ XVII đă chấp nhận
cuộc phục hưng :
« Le prieuré des Deux Amants, au même
diocèse de Rouen, embrassa aussi la même réforme le 24 mai 1648. »
Tên gọi
« Deux Amants » ở đây là tên địa danh nơi
có tu viện. Con xin trích lại đây bản văn nói về
nguồn gốc tên gọi này để cha đọc qua
cho biết :
« Il y a eu plusieurs opinions touchant
l’origine de ce nom. La tradition du pays est qu’un jeune gentilhomme ayant
recherché en mariage une demoiselle des environs de ce lieu, ses parents ne
crurent pas ce parti avantageux pour elle et refusèrent son alliance. Ce
gentilhomme ne se rebuta point de ce refus, au contraire il redoubla ses
poursuites jusqu’à se rendre importun, de sorte que le père de la fille,
croyant se défaire de lui en lui demandant quelque chose d’impossible, lui
promit sa fille s’il la pouvait porter jusqu’au haut de cette montagne où le
monastère est présentement situé, laquelle est fort roide [sic] et de
difficile accès. Il accepta la condition et la porta heureusement jusqu’au
haut de cette montagne, mais si las et si épuisé, qu’il expira,
sur-le-champ. Cet accident toucha si sensiblement la fille, qu’elle mourut
aussi de déplaisir, de sorte que les parents de l’un et de l’autre les firent
inhumer ensemble au même lieu, qui a gardé depuis le nom des Deux Amants.
Comme cette histoire
approche du roman, c’est pour cela que d’autres ont cru que ce nom avait été
donnée à ce monastère en considération d’un mari et d’une femme d’Auvergne dont
parle Grégoire de Tours au livre XXXII De Gloria Confessorum. Lesquels
ayant gardé toute leur vie la virginité dans le mariage, et ayant été enterrés
après leur mort l’un après l’autre dans deux sépulcres différents de pierre, on
trouva les le lendemain qu’ils étaient si bien joints ensemble, qu’il n’en
paraissait qu’un : c’est pourquoi ils furent honorés dans tout le pays sous le
nom des Deux Amants.
Mais il y en a d’autres
qui ont estimé qu’il ne fallait point chercher d’autre origine que l’amour
saint et réciproque de Notre-Seigneur envers
II. « Bái
Vàng ».
Tiếp
theo vấn đề danh xưng « Mến Thánh
Giá », con xin đề cập tới chuyện nhà MTG
« Bái Vàng ».
Cha viết
(trang 22-23) :
« đấng
thiết lập và sáng lập Ḍng MTG ở Việt Nam là
Đức Cha Lambert vào năm 1670 đối với hai nhà
Kiên Lao và Bái Vàng thuộc Đàng Ngoài, và cuối năm 1671
đối với nhà An Chỉ thuộc Đàng Trong. Thực
ra chúng tôi chưa được thấy các tư liệu
ghi trong thế kỷ XVII nơi nào viết rơ ràng Kiên Lao và
Bái Vàng là hai nhà MTG đầu tiên. Riêng nhà Kiên Lao th́ chúng tôi dựa
vào cách nói gián tiếp có thể hiểu được là
nhà MTG đầu tiên ; c̣n nhà Bái Vàng th́ khó chứng minh
quá. Tuy nhiên trong khi chờ đợi bằng chứng
đích xác, chúng tôi tạm coi Kiên Lao và Bái Vàng là hai nhà MTG
đầu tiên, mà cha Ravier (Cố Khánh) đă viết trong
sách Sử kư Thánh Yghêrêgia. Ở Đàng Trong th́ tư liệu
tk XVII ghi rơ nhà MTG đầu tiên ».
Phần
con, chẳng những con đồng ư với cha, mà lại
c̣n vui mừng khi thấy cha lên tiếng rơ ràng rằng :
« nhà Kiên Lao th́ chúng tôi dựa vào cách nói gián tiếp có thể
hiểu được là nhà MTG đầu tiên ; c̣n nhà
Bái Vàng th́ khó chứng minh quá ».
Nhân dịp
này, với những tài liệu con hiện có được,
con cố gắng t́m hiểu vấn đề : nhà Kiên
Lao và nhà Bái Vàng có phải là hai nhà MTG đầu tiên
không ?
Về
nhà Kiên Lao, con có được mấy tài liệu xin kính
tŕnh cha :
1.- Cố
Ravier Khánh viết về nhà Kiên Lao như sau :
« Ngày mười bốn tháng
februariô năm 1670 Đức Thày [Lambertô] hợp ṭa công
đồng mà ra mấy điều luật về phép chung
phải giữ trong địa phận, là cách chọn thày kẻ
giảng, sự bầu trùm trưởng cùng mấy việc
khác. Người cũng lập phép nhà cho những người
nữ đă hợp nhau đi đàng nhân đức như
đă nói trước này. Người đặt tên là
« Chị em mến câu rút » và lập nhà mụ thứ
nhất ở Kiên Lao trong tỉnh Nam Định. Đến
sau Toà Thánh châu phê vào công đồng ấy và phép nhà Chị
em mến câu rút. » (Ravier Marcel, Sử kư thánh Yghêrêgia, tập
III, Ninh Phú Đường, 1895, trang 255).
Chúng ta
có thể nhận thấy rằng cố Ravier Khánh nói rất
rơ ràng rằng nhà mụ Mến Thánh Giá « thứ nhất »
hay đầu tiên tại Đàng Ngoài là nhà Kiên Lao, do chính
ĐC Lambert thiết lập năm 1670. Chi tiết này xem ra
rất quan trọng khi chúng ta đem đối chiếu với
bản văn cũng của chính tác giả nói về nhà Bái
Vàng, bản văn mà sắp tới đây, con xin nêu ra.
2.-
Năm 1682, ngày 19 tháng Janvier, ĐC Deydier Phan tới thăm
cộng đoàn các D́ Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (xem :
Adrien Launay, Histoire de
Vào thời
điểm này, ĐC Phan mới chỉ được Ṭa
Thánh chọn làm giám quản tông toà xứ Đàng Ngoài, chứ
chưa được chịu chức giám mục. Đoạn
tài liệu đó cho chúng ta biết có một nhà MTG tại
Kiên Lao, nhưng không hề cho biết đó có phải là nhà
đầu tiên không. Vào cơn bách đạo năm 1684, nhà
MTG Kiên Lao này đă quy tụ tới 16 chị em (xem HMT-D,
trang 320).
3.- Vào
năm 1710, trong tập kư sự việc truyền giáo tại
Đàng Ngoài, chúng ta thấy có tới 3 nhà MTG đầu tiên
do ĐC Lambert lập năm 1669-1670 : nhà Kiên Lao, nhà
« Du 1er décembre 1709 au 28 décembre
1710.
On mettra ici un petit article qui regarde
les Pères Dominicains, dont il suffira, à ce qu’on croit, de parler à leur
Général afin qu’il y mette ordre.
Il y a, dans le district des Pères
Dominicains, trois maisons de religieuses qu’on appelle les Amantes de
Étrangères de Paris, tập…, trang…).
4.- Vào
năm 1754, nhà MTG Kiên Lao gặp chuyện phiền hà :
« Une des plus anciennes maisons des
religieuses Amantes de
(Journal de 1754 : Amep, t. 688,
tr. 597)
5.- Vào
năm 1759, nhân chuyện kiện cáo giữa MTG và các cha ḍng
Đa Minh, có 2 tờ chứng của kí lục Nhạ
như sau :
« tôi làm chứng ông cụ chính
Huy viết một tờ giấy chữ Annam mà đưa
cho xóm (Kiên Lao) mà bảo xóm bắt chị em mến Curút khấn
vào ḍng
« Tôi là kí lục Nhạ làm chứng
thật trước mặt Đức Chúa Trời,
ví bằng tôi có nói gian, th́ tôi chết sa địa ngục
[…]. Sau nữa, ông cụ Huy sai Văn Trâm đi đốt
nhà mụ Na, Văn Khoẳn đốt nhà Kiên Lao, thày Lai
đốt nhà mụ
6.-
Đức cha Néez cũng có viết rằng :
« Le 26 février 1759.
Le P. Nhuận a été le principal agent
pour forcer les religieuses de
7.- Sau
cùng, trong thư của cha Reydellet có lời cho biết rằng
nhà MTG Kiên Lao xin chuyển sang phần đất thuộc
giáo phận Tây Đàng Ngoài :
« Le 21 septembre 1762.
Les six maisons de religieuses Amantes de
Về
nhà MTG Kiên Lao, con may mắn t́m được một số
tài liệu như trên cho phép con nghĩ được rằng
nhà Kiên Lao « có thể hiểu được là nhà MTG
đầu tiên ».
C̣n về
nhà Bái Vàng, con không t́m ra được dấu chứng nào
cho biết đó là nhà MTG đầu tiên ; trái lại, có
lẽ nhà MTG Bái Vàng chỉ được lập nên muộn
màng sau này mà thôi.
1.-
Trước tiên, đây là đoạn văn của cố
Ravier Khánh (Marcel-Henri) nói về nhà Bái Vàng :
« Bấy giờ có ba người
nữ ở xứ Đông đă khấn giữ ḿnh đồng
trinh lọn đời, thoạt khi nghe tin chúa đă ra chỉ
cấm đạo th́ đến Kẻ Chợ cho được
xưng đạo ra trước mặt chúa. Khi đi dọc
đường phải chịu nhiều sự khổ sở,
song đến Kẻ Chợ th́ chúa đă tha đạo rồi.
Bấy giờ ba người nữ ấy dốc ḷng chẳng
hề ĺa nhau nữa, một ở chung vuối nhau cho
được tập đi đàng nhân đức. Về
sau có nhiều người nữ khác bắt chước ba
người ấy. Có lời truyền khẩu rằng nhà
mụ Bái Vàng trong tỉnh Hà Nội là nhà trước hết
trong nước Annam, phỏng th́ là nhà ba người nữ
ấy đă lập mà ở. Ấy là gốc tích nhà mụ. »
(Ravier Marcel, sách đă dẫn, tr. 147-148).
Con
đă có dịp nói lên nhận xét riêng của con về câu
chuyện có tính đạo đức này (« Ba cô trinh nữ
xứ Đông », hay : Mến Thánh Giá Thế Kỷ
17, tr. 16-17). Chính cố Ravier Khánh cũng nói rất ngay thẳng
rằng nhà MTG Bái Vàng là do « lời truyền khẩu »
thôi, nghĩa là không có văn bản nào để chứng
minh cả, nghĩa là không c̣n ḥn đá nào hay bức tường
nào hay sự vật chi làm minh chứng khoa học cả.
2.- Trong
quyển Sống Trong Xă Hội
Con Rồng Cháu Tiên 1615-1773, (1999), cha cũng có nói tới
Bái Vàng, ở trang 323 :
« Ngày 25-3-1669, Deydier mới lẻn
ra khỏi kinh thành được, đi về Bái Vàng ;
rồi được bổn đạo Kiên Lao chèo thuyền
đến Bái Vàng đưa cha về với họ. »
Con lại
không t́m ra được tên Bái Vàng trong kư sự của cha
Deydier, chỉ biết chiều ngày 25.3.1669 đó, cha Deydier tới
Kẻ Sở, cách kinh đô Hà Nội độ nửa ngày
đường. Rồi ngài lưu lại đó tới ngày
29 cùng tháng để lo rửa tội và giải tội.
Năm đó, nhà thờ Kẻ Sở cũng vừa
được dựng lên : « Cette église, nouvellement
construite cette année, est fort passable. » (HMT-D, tr. 56)
3.- Lần
đầu tiên con gặp được tên Bái Vàng trong các
thư từ, bút kư, tường tŕnh, v.v.,
của những vị thừa sai ngày trước ở xứ
Đàng Ngoài là ở kư sự của Đức cha Néez, giám
mục hiệu toà Céomanie :
« Le 29è mai, les rebelles firent une
nouvelle irruption dans le village de Bái Vàng situé à une journée de chemin
au-dessous de la ville royale, et dans quelques autres villages voisins. Ils
pillèrent le village et emportèrent tout ce qu’ils peuvent. Il y a dans ce
village une résidence de l’évêque de Ceomanie, une des Pères Jésuites, et une
maison des religieuses Amantes de
Dấu
chứng trên chỉ cho biết có một nhà MTG tại Bái
Vàng vào năm 1740, chứ hoàn toàn không giúp chúng ta đoán
được có nhà MTG nào vào những năm 1669-1670 tại
xứ này hay không.
Cuối
cùng, con xin nói như cha đă nói, rằng : « Nhà Bái
Vàng th́ khó chứng minh quá. »
III. Đàng Ngoài
(1669-1670)
Từ
lâu, con vẫn có một cái thắc mắc, và khi đọc
sách của cha, con lại càng thêm ṭ ṃ hơn : khi Đức
cha Lambert tới Đàng Ngoài (1669-1670), ngài đă đi đến
những nơi nào ?
Theo ư kiến
của cha, th́ :
« Tại Phố Hiến,
ĐC Lambert cũng không dám xuất đầu lộ diện
công khai, những ngày đầu ngài chỉ ở trên tàu. Và
trong hơn 5 tháng ở Đàng Ngoài, xem ra ngài cũng chỉ
quanh quẩn ở trên tàu và trong thương điếm
Pháp tại Phố Hiến. Chúng tôi nghĩ rằng, ngài không
dám lén lút lên Thăng Long hoặc về vùng Kiên Lao. » (tr. 62).
Con cũng
nhận xét gần gần như cha vậy.
Cha
Joseph Tissanier, ḍng Tên, lúc đó đang ở Ajuthia, bên Xiêm La,
nói rằng ĐC Lambert không hề rời con tàu :
« Ces deux Prestres habillés en
marchands eurent un peu de liberté. Mais M. de Bérite ne sortit jamais du
vaisseau. Il y donna la confirmation à plusieurs chrétiens, et la prestrise à
sept Prestres Tonquinois. » (Amep, t. 876, tr. 825).
Tuy
nhiên, theo nhận xét của con, có lẽ là Đức cha
đă cùng các thủy thủ người Pháp, với tư
cách là người Pháp và tuyên úy thương thuyền này,
đi kinh đô Hà Nội hai hay ba lần theo lời mời
của triều đ́nh Đàng Ngoài đang muốn lấy
ḷng nước Pháp. Trong kư sự do chính ngài viết, ĐC
Lambert đă kể chuyện ngài tới triều đ́nh
như thế nào :
« Le roi, voulant donner des marques
publiques de l’estime qu’il faisait des Français, les fit convier deux ou trois
fois aux festins qu’il fit aux étrangers, qu’il ne faisait principalement, à ce
que l’on disait, que pour régaler les Français et pour leur montrer les
magnificences de sa Cour. » (Amep, t. 677, tr. 187 ; HMT-D, tr.
85-86 ; Relation des Missions François…, divisé en quatre parties,
Paris, Le Petit, 1674, tr. 282-283).
Và sau
này, khi viết tiểu sử ĐC Lambert, cha Brisacier cũng
nhắc lại chuyện Đức cha tới triều
đ́nh Hà Nội :
« Il [Mgr Lambert] eut même un
bonheur auquel il ne s’était pas attendu et que personne n’osait espérer car
ayant été produit à
ĐC
Lambert cảm thấy rất hạnh phúc trong chuyến
đi Đàng Ngoài và coi chuyến đi đó là một thành
công. Bởi thế, ngài khởi đầu lời cầu
nguyện tạ ơn trước khi rời xứ Đàng
Ngoài như sau :
« Divin Jésus, puisque tout le succès de
ce voyage vous est dû, il n’est pas juste que nous y prenions part ni que pour
nous ne fassions notre possible pour empêcher qu’on ne vous attribue ce qui
vous n’appartient pas. » (Amep, t. 677, tr. 216)
IV. D́ Phaola.
Cha viết
về 2 nữ tu MTG đầu tiên, cách riêng D́ Phaola, trong những
trang 76-83. Điều mà con thắc mắc nhiều nhất
khi đọc sách của cha nằm ở phần này.
Ba nhân vật
nữ ở đây :
- thứ
nhất là D́ Phaola, một trong hai nữ tu Mến Thánh Giá
đầu tiên ;
- thứ
hai là « em hay chị ruột » của linh mục
Phêlixitê Tấn ;
- thứ
ba là D́ Phaola, « bà mụ cả », bị bắt
năm 1686.
Câu hỏi
được nêu ra đây là :
Ba nhân vật
nói trên chỉ là một người, hay là hai người
khác nhau, hay là ba người khác nhau, cho dù có thể cùng mang
một tên gọi Phaola như nhau ? Nghĩa là : bà bề
trên Phaola bị bắt năm 1686 có đúng thực là em hay
chị của linh mục Tấn và cũng là D́ Phaola,
người đă khấn trước mặt ĐC Lambert
không ?
Hiện
nay, con chưa gặp được tài liệu nào trả
lời rơ ràng cho câu hỏi này cả. Có một vài tài liệu
liên quan tới vấn đề (mà con sẽ nêu ra sau
đây), nhưng chỉ giúp đoán xa đoán gần vậy
thôi, chưa làm cho con được thực sự thoả
măn và yên tâm.
Về
nhân vật nữ thứ nhất : chúng ta may mắn biết
được hai nữ tu Mến Thánh Giá đầu tiên,
khấn vào Thứ Tư Lễ Tro ngày 19.2.1670 trước
ĐC Lambert, tên là Phaola và Inê. Nhưng ngoài cái tên gọi theo
phép đạo đó ra, chúng ta không biết chi nhiều
hơn về hai nữ tu này : sinh năm nào ? quê quán ở đâu ? lúc
đó đang tu tŕ tại xứ đạo nào ? v.v. ? (xem HMT-D, tr.
104-105).
Rồi,
vào năm 1686, tức 16 năm sau đó, xảy ra một
câu chuyện tố cáo, bắt bớ và xét xử mà một
trong những nhân vật chính là « bà bề trên cả các
chị MTG » có tên Phaola. (HMT-D, tr. 327) - Tự nhiên ở
đây người ta sẽ thắc mắc : D́ Phaola
năm 1686 này và D́ Phaola năm 1670 trước, có phải là
một hay không ? V́ cả hai đều là « Phaola »
và cả hai đều là « bề trên ». Và D́ Phaola
năm 1686, một người « tóc đă bạc mầu »
(«
Xét
đi xét lại, Phaola 1670 và Phaola 1685 là 2 hay là 1 ? Con thấy
đàng nào cũng vừa được vừa không.
Giờ
xét xem chuyện em gái của cha Phêlixitê Tấn [Tấn, không
phải Tân] :
Đức
cha Néez, sau khi giới thiệu cha Tấn sinh năm 1639, cha
mẹ công giáo, tại làng Bùi Chu, huyện Giao Thủy, nói
thêm : « Em gái [hay chị] của ngài theo gương
ngài và đă gia nhập một nhà các nữ tu Mến Thánh
Giá, sau đó trở thành bề trên nhà ấy cho tới lúc
qua đời. »
« M. Félix Tân
ou Miên, né en 1639, de parents chrétiens, au village de Bui-Chu, dans le
bailliage de Giao-Thuy, se consacra dès sa jeunesse au service de la mission.
Sa sœur suivit son exemple et entra dans une maison des Amantes de
Cứ
theo những ǵ ĐC Néez viết trong sách của ngài, chúng ta
chẳng thể biết « em gái hay chị » của
cha Tấn tên ǵ ? đi tu ở
đâu ? qua đời năm nào ?
Cha viết
(trang 77-78) rằng :
« Từ tuổi thanh xuân, Tân đă dâng ḿnh
phục vụ giáo đoàn, hiểu được là thành
viên của Tu hội Thầy giảng ở Đàng Ngoài. Bắt
chước Tân, Phaola cũng ‘‘đi tu’’. Đc Néez viết
là ‘‘Phaola gia nhập một trong các nhà Mến Thánh
Giá’’. Nhưng lúc ấy chưa có Ḍng MTG … » (gạch dưới ở
trên là do con thêm vào).
Nếu
căn cứ theo chính bản văn của ĐC Néez, có lẽ
thay v́ đặt dấu ngoặc kép trước chữ
Phaola (« Phaola gia
nhập …), chúng ta sẽ đặt sau chữ đó (Phaola
« gia nhập …).
Và câu
chuyện cha Tấn chịu cảnh bắt bớ cũng
do ĐC Néez kể lại (Amep, t. 670, tr. 51 ; hay trong sách
đă dẫn của Mgr Néez, tr. 90-95 ; hay : HMT-D, tr.
326-332) : tháng 6 năm 1686, ngài gặp tai nạn tại xứ
Kẻ Bơn ; nhưng ngài qua khỏi nhờ « sự
can đảm và cẩn thận mà Chúa soi ban cho hai người
đàn bà lo gánh vác sự vụ này » (« par le courage et
la prudence qu’il inspira à deux dames qui se chargèrent de toute cette
affaire »), (Amep, t. 670, tr. 52). Hai người đàn bà nói
đây là bà Phaola Cường [Cường, chứ không phải :
Khương] và Mẹ Phaola, « bà bề trên cả của
các nữ tu MTG » (« la principale supérieure des Amantes de
Theo ư kiến
của cha, D́ Phaola năm 1670, D́ Phaola năm 1686, và D́ nữ
tu « em hay chị ruột của linh mục Felix Tân »
chỉ là một. C̣n con, con thấy chưa có đủ chứng
cớ để có thể yên tâm thừa nhận hay yên tâm
bác bỏ ư kiến của cha, con chỉ mong có được
thêm tài liệu mới nào đó về chuyện này.
V. Chủng viện.
Nhân
đọc những điều cha viết ở các trang
113, 114 và 115 : « Công đồng Trentô (1545-1563) đă
quyết định lập các Chủng viện trong Giáo hội
[…] Sau đó, ngài dâng lễ ‘‘mở tay’’ ngày 8-2-1656 trong Chủng
viện Coutances của thánh Jean Eudes », con cố gắng
t́m hiểu thêm về vấn đề đào tạo trí thức
cho các linh mục ở thời đại của Đức
cha Lambert. Về điểm này, thời đại đó rất
là khác xa với thời đại chúng ta hôm nay.
Đây
là tài liệu con sử dụng để có được
các bản văn tiếng Pháp của Công đồng
Trentô :
Le Saint Concile de Trente oeucuménique et
général, célébré sous Paul III, Jules III, et Pie IV Souverains Pontifes. Nouvellement
traduit par M. l’Abbé Chanut. Troisième Édition. À Paris, chez Sébastien
Mabre-Cramoisy, M.DC.LXXXVI.
Ngoài ra,
con có tham khảo qua bản văn của Công đồng
Trentô trong :
- Histoire des Conciles. Tome X, 1e
partie : Les Décrets du Concile de Trente, par A. Michel, Paris, Letouze
et Ané, 1938.
- Les Conciles Œcuméniques. Tome II.2 :
Les Décrets. Trente à Vatican II, [latin et français], Paris, Cerf, 1994.
Công
đồng Trentô luận bàn về bí tích Truyền Chức
vào khoá thứ XXIII, ngày 15.7.1563 :
sau khi
tŕnh bày giáo lư công giáo về bí tích trên (4 chương), Công
đồng định ra 8 điều luật (canons) và
công bố một Sắc lệnh về việc cải tổ
trong Giáo Hội (Décret de Réformation). Theo Sắc lệnh gồm
18 chương đó,
- không
được lănh chức Cắt Tóc để gia nhập
hàng giáo sĩ những ai không biết đọc biết viết,
hay chưa chịu bí tích Thêm Sức, hay không hiểu biết
giáo lư cơ bản (chương IV) ;
- phải
có chứng nhận tốt của cha xứ, hay của thầy
dạy học th́ mới được nhận lănh các chức
nhỏ (hay các chức bậc hạ trong hàng giáo sĩ)
(chương V) ;
- ai muốn
nhận các chức lớn (chức bậc thượng)
th́ phải đi gặp giám mục một tháng trước
đó, phải có điều tra công khai trong xứ đạo
về hạnh kiểm, và có giấy chứng thực của
cha xứ (chương V) ;
- Giám mục,
trước ngày truyền chức, phải khảo xét các ứng
sinh cách « cẩn thận và chính xác, về gia đ́nh, về
bản thân đương sự, về tuổi tác, về
phương cách giáo dục, về phong tục, về giáo
lư và về ḷng tin của họ » (« (« il éxamine
avec soin & éxactitude, la famille, la personne, l’âge, la maniere
d’éducation, les mœurs, la doctrine, & la créance de ceux qui doivent estre
ordonnez. ») (chương VII) ;
- Những
ai muốn chịu chức Phụ Phó Tế và Phó Tế c̣n
phải « có học hành đầy đủ về chữ
nghĩa và tất cả những điều khác cần thiết
cho việc thi hành chức vụ » (« qui se trouveront
suffisamment instruits dans les bonnes Lettres, & dans toutes les autres
choses qui regardent l’éxercice de l’Ordre auquel ils aspirent. ») (chương XIII) ;
- Đối
với ai tiến tới chức linh mục, c̣n phải tỏ
ra « có khả năng dạy dỗ giáo dân những sự
cần thiết cho phần rỗi đời đời và
có khả năng cử hành các bí tích » » (« ils doivent
encore préalablement estre reconnus par un bon éxamen, capables d’enseigner au
peuple les choses nécessaires à salut pour tout le monde, & d’administrer
les Sacremens ») (chương XIV).
Qua những
điều phán dạy trong Sắc lệnh của Công đồng
Trentô liên quan tới khả năng trí thức của các ứng
sinh chức linh mục mà con vừa trích dẫn ở trên,
chúng ta nhận thấy rằng :
- không hề
có sự đào tạo trí thức một cách đặc biệt,
lại càng không có việc học thần học, nơi các
ứng sinh linh mục thời đó ;
- ngoài vấn
đề hạnh kiểm, gương sáng, v.v.,
chỉ đ̣i hỏi các ứng sinh linh mục « có
ăn có học » nghiêm chỉnh, đàng hoàng, hiểu tiếng
la-tinh, biết giáo lư của Giáo Hội công giáo và có khả
năng giảng dạy giáo dân thôi.
Nơi
đây, đương nhiên chúng ta chỉ bàn tới các
« linh mục triều », tức hàng giáo sĩ giáo phận.
Thời đó, nói chung, các tu sĩ linh mục th́ khá hơn
các giáo sĩ giáo phận về hạnh kiểm cũng
như khả năng trí thức. (Bởi thế, ở Pháp
mới có chuyện gọi tu sĩ linh mục là
« Père », và « ông cha triều » là « Monsieur
l’Abbé », v́ không đáng được gọi là
« Père »).
Chúng ta
c̣n nhớ rằng cuốn sách giáo lư rất nổi tiếng
do Công đồng Trentô đề ra, không phải là dành cho
giáo dân, nhưng là dành cho chính các giáo sĩ giáo phận (cha xứ,
cha phó, v.v.) để các đấng biết mà giảng dạy
cho đúng giáo huấn của Giáo Hội :
« Cette sainte assemblée en effet (en
décrétant ce catéchisme) a voulu simplement donner aux Pasteurs et aux autres
Prêtres ayant charge d’âmes, la connaissance des choses qui appartiennent en propre
au ministère d’une paroisse, et qui sont le plus à la portée des fidèles. Voilà
pourquoi ils n’ont dû s’occuper ici que de ce qui pourrait seconder le zèle et
la piété de certains Pasteurs qui peut-être ne seraient pas assez sûrs
d’eux-mêmes dans les points les plus difficiles de la science divine. » (Trích trong Lời Mở
Đầu của cuốn Catéchisme du Concile de Trente, éditions
Dominique Martin Morin, Bouère - France, 1998, trang 8-9).
Và tựa
đề cuốn giáo lư đó là :
- Catechismus ex decreto Concilii Tridentini
ad parochos Pii V jussu editus, Romae, 1566.
- Catechismus ad
Parochos sacrosancti oecumenici concilii Tridentini Pii quinti pontificis
maximi dispositione confectus. Editio nova juxta exemplaria Clementis Papae XIII,
typis edita Romae anno 1761.
Như cha có nhắc tới, Công đồng
Trentô đă quyết định lập các chủng viện
trong Giáo Hội và chương XVIII của Sắc lệnh
(đă nêu trên) hướng dẫn rơ về việc dạy
dỗ trong chủng viện :
« De
l’ordre, & de la maniére de proceder à l’érection des Séminaires, pour élever
des Ecclésiastiques dés le bas âge ».
(Người
ta c̣n gọi riêng chương XVIII này là Sắc lệnh
« Cum adolescentium aetas »).
Loại
chủng viện kiểu Công đồng Trentô chỉ nhận
những trẻ em trên 12 tuổi, con nhà gia giáo, đă tạm
biết đọc biết viết, v.v. Trong số các thiếu
niên được nhận, giám mục sở tại sẽ
tuyển chọn những ai sẽ được hướng
về chức vụ linh mục. Đối với thành phần
sau này, họ sẽ học văn phạm, thánh ca, các phép
tính, văn chương, Thánh Kinh, các sách thuộc giới
giáo sĩ, bài giảng của các thánh và những ǵ liên quan tới
việc cử hành các bí tích, cách riêng bí tích giải tội :
« Et afin qu’ils soient plus asiément
élevez dans la discipline Ecclésiastique, on leur donnera tout d’abord, en
entrant,
Loại
chủng viện như trên th́ chưa thấy có tại Pháp
vào thời kỳ Đức cha Lambert c̣n sống tại quê
hương (1624-1660). Ở Paris thời đó, lúc cha
Jean-Jacques Olier lập chủng viện Xuân Bích đầu
tiên, năm 1641, tại khu Vaurigard, th́ là để tiếp
các linh mục tại chức muốn thụ huấn thêm mà
thôi.
Nói
chung, cho tới những năm 1640-1645 tại Pháp, các
trường ḍng hay chính các tu viện đă giúp nhiều vào
việc huấn luyện trí thức cho các linh mục
tương lai, bởi v́ họ thường theo học ở
đó :
« Tout ceci [les collèges tenus par les
religieux, les couvents, etc.], qui contribuait à l’instruction d’une partie
seulement des très nombreux prêtres de l’époque, n’assurait guère leur
préparation morale et spirituelle, qui n’était nullement contrôlée quand ils se
présentaient à l’ordination. » (I. Noye, « Séminaire » in Catholicisme,
tome 13, Paris, Letouze et Ané, 1993, colonnes 1062)
Các chủng
viện tại Pháp chỉ thành h́nh từ từ nhờ những
ḍng tu mới ra đời chuyên việc huấn luyện
giáo sĩ như ḍng của thánh Bérulle, thánh Vincent, thánh Jean
Eudes, cha Jean-Jacques Olier (Xuân Bích), v.v. Những chủng viện
chuẩn bị các ứng sinh Chức Thánh (tức đă
trưởng thành, không phải thiếu niên theo kiểu chủng
viện Trentô) về mặt trí thức, đạo đức
và tinh thần :
« Les clercs, en suivant ailleurs les
cours de philosophie ou de théologie, prolongaient au séminaire leur formation
spirituelle et recevaient une préparation au ministère qui ne se donnait pas à
l’Université : cérémonie, chant, prédication, catéchisme. Cette formule
nouvelle des séminaires d’ordinands connut un réel succès : en 1660, plus
de quarante diocèces en étaient pourvus. » (I. Noye, ibidem).
Những
chi tiết thuộc giáo huấn Công đồng Trentô và lịch
sử Giáo Hội mà con vừa trưng dẫn dài ḍng ra trên
đây có lẽ hữu ích, v́ giúp chúng ta hiểu rơ hơn sự
kiện Đức cha Lambert chịu phép Cắt tóc, các chức
bậc hạ (Giữ cửa, Đọc sách, Trừ quỷ,
Giúp lễ), rồi bậc thượng (Phụ Phó tế,
Phó tế, Linh mục), cũng như việc học thần học của
ngài.
Trong tập
tiểu sử Đức cha Lambert thực hiện vào
năm 1685, cha Brisacier (Amep, tập 122) cho chúng ta biết
Đức cha Lambert đă lănh nhận :
- vào khoảng
đầu tháng 9 năm 1655, phép Cắt tóc để gia nhập
hàng giáo sĩ và bốn chức bậc hạ ;
- chức
Phụ Phó tế vào đầu tháng 12 năm đó, tại
Bayeux, trong một buổi lễ kéo dài 11 tiếng đồng
hồ ;
- chức
Phó tế vào ngày lễ thánh Tôma Tông đồ, ngày 21-12 ;
- và sau
cùng, chức Linh mục vào ngày lễ thánh Gioan Tông đồ :
ngày 27-12-1655, tại nhà thờ chánh toà Bayeux. Lúc đó, ngài 31
tuổi.
Riêng về
việc học thần học nơi Đức cha Lambert,
cha nhận xét rằng (trang 114) :
« về việc
học Thần học của Đc Lambert thế nào, học
với những thầy nào và trong Chủng viện hay Đại
học, th́ chúng tôi không rơ lắm. Nhưng vào tháng 9-1655 lúc
Đc chịu các chức bậc hạ trong hàng giáo sĩ, chắc
chắn Đức Giám mục Giáo phận Lisieux là Bản
quyền của ngài khi chấp thuận nhận ngài vào hàng
giáo sĩ, th́ đă hài ḷng về việc học Thần học
của ngài. »
(hai chữ « chắc
chắn » trong bản văn của cha không có gạch
dưới, gạch dưới là do riêng con thêm vào).
Tuy nhiên
khi đọc tài liệu của cha Brisacier (mà h́nh như cha
chưa có khi soạn cuốn Ḍng
Mến Thánh Giá Những Năm Đầu [2003], khác với
lúc mà cha viết cuốn sau này là cuốn Hai Giám Mục Đầu Tiên Tại Việt Nam
[2005]), theo hoàn cảnh lịch sử thời đó, người
ta sẽ hiểu hơn là tại sao Đức cha Lambert lại
có mơ ước đi học thần học tại
Paris sau khi chịu chức linh mục :
« [Le] dessein qu’il avait connu depuis
longtemps d’aller étudier à Paris ; il espérait même faire en ce
lieu-là de grands progrès dans les sciences, sans rien perdre de son union avec
Dieu […] »
« D’abord en se sondant lui-même il
pensa qu’il valait mieux selon Dieu s’en tenir à la vie cachée du Sauveur et aller
faire à Paris en inconnu le personnage d’écolier que de souffrir qu’on le
mît de si bonne heure dans une administration importante [l’hôpital général de
Rouen] [...] »
« on lui conseilla tout de nouveau de ne
plus penser qu’à se perfectionner dans la vie cachée, et à se rendre à Paris
incontinent après Pâques pour y passer au moins une année dans une sérieuse
application à l’étude de plusieurs choses qui lui étaient nécessaires pour
secourir un jour le prochain avec autant de solidité qu’il avait déjà
d’onction. »
(Amep, t. 122, đoạn số 77,
80 và 81)
Mơ
ước không thành bởi v́ nhận lời làm việc cho
cơ quan từ thiện xă hội tại Rouen, ngài sẽ
t́m cách học thần học « tại gia ». Thầy
dạy ngài sẽ là một linh mục tiến sĩ, giáo
sư thần học tại Paris, người gốc xứ
Ai Nhĩ Lan.
« [Il s’applique] à la théologie qu’on
appelle scolastique dont il avait placé l’étude vers le soir lorsqu’on ne lui
parlait plus d’affaires.
Il fit cette étude sous la direction d’un
habile et vertueux prêtre d’Irlande qui ayant jusqu’alors répété la théologie
dans l’université de Paris se rendit à Rouen auprès de lui pour y faire la même
fonction. »
(Amep, t. 122, đoạn số 98 và 99)
Nơi
đây, con nhớ đến việc Đức cha Lambert
đă kết án luận đề thần học của
linh mục ḍng Tên người Tây Ban Nha, cha Antoine
Quintanadvenas, vào cuối năm 1666 tại Xiêm La. Và ngày
4-8-1670, tại Roma, các Đức Hồng y của bộ
Truyền Giáo lúc ấy đă lên tiếng công nhận việc
kết án đó của Đức cha Lambert. Sự kiện
này có thể hé mở cho chúng ta thấy, không chỉ cái thông
minh bẩm sinh, cái tính khí cứng rắn và cái bản lănh rất
cao nơi Đức cha Lambert, mà c̣n cho thấy sự hiểu
biết về thần học nơi ngài nữa.
Thưa cha kính mến,
Con tạm dừng nơi
đây. Có lời ăn tiếng nói nào không phải, xin cha
vui ḷng bỏ qua cho con. Lần tới con sẽ viết tiếp
những cảm nghĩ và những
t́m hiểu của con nhân khi đọc sách của cha.
Con : Toản