Vài trích dẫn
để
suy nghĩ về Đức cha Lambert
Ngă ngựa :
(Tại Rouen, thời làm việc tại
Toà án).
« Theo tính tự
nhiên, ngài thích được trọng vọng, nhưng Thiên
Chúa đă giúp ngài thoát khỏi tính háo danh qua một tai nạn
do bất cẩn. Ngài đă vui vẻ lợi dụng nó
để thắng vượt tính tự nhiên ḿnh. Đó là
vào ngày ngài được mời đến dự buổi
hội họp để kư giấy hôn thú cho một người
bà con sống ở Rouen. Ngài cưỡi ngựa, ăn mặc
rất tề chỉnh. Không hiểu sao con ngựa đă sợ
hăi lồng lên hất ngài ngă xuống một con suối nhỏ
làm ngài dơ bẩn từ đầu tới chân. Trong giây
phút đó, ngài chợt nhớ đến chuyện thánh
Phaolô ngă ngựa, và tự bảo ḿnh : Thật bẽ mặt
cho tính háo danh của ngươi nhé ! Rồi ngài can
đảm cứ để vậy đi đến nơi
hội họp.
Sau lần chiến thắng
được bản thân đó, ngài gần như không c̣n
cảm thấy khó khăn nữa khi thực hành các nhân
đức. Với ḷng tri ân Thiên Chúa về ân huệ vừa
lănh nhận được, ngài càng thêm quyết tâm tận
hiến trọn vẹn cho Chúa, không giữ lại, không bớt
xén chút ǵ. » (Brisacier,
12-13, Amep, tập 122).
Vô cảm :
(Thời lo
« Ngài đă tránh xa
những lời khen ngợi thường xuyên của những
nhân vật thế giá nhất. Không có ǵ ngài không làm để
trốn những lời ca tụng.
Ngài tự đặt
ra quy luật bất khả xâm phạm là không bao giờ nói
ǵ về những công việc ḿnh đă làm hoặc những
ân sủng ḿnh đă nhận, ngay cả những lời
đă khuyên ai, thậm chí cả những ư kiến trong những
cuộc thảo luận, hoặc những đóng góp vào công
việc phục vụ Thiên Chúa và đồng loại. Mặc
dầu ngài yên lặng, người ta vẫn khám phá ra
điều ǵ đó và khen ngợi ḷng nhiệt t́nh cũng
như đức hạnh của ngài. Những khi ấy
ngài cố sức vượt lên chính ḿnh, đến mức
độ vô cảm cao nhất.
Ngài phân ra ba mức
độ vô cảm :
- mức độ thứ
nhất là nghe người ta nói tốt cho ḿnh mà cứ
như việc đó không liên quan ǵ đến ḿnh, hoặc
như người ta không nói ǵ hết ;
- mức độ thứ
hai là không kể lại cho ai điều đă nghe
được, mà tống táng nó vào cơi quên lăng muôn đời ;
- và mức độ
cuối cùng là tự thâm tâm nhận biết ḿnh chỉ là kẻ
hèn mạt đáng khinh nhất trên thế gian, đồng
thời bên ngoài không biểu lộ ra cảm xúc nào.
Ngài tự xem ḿnh
chưa thực hành một cách hoàn hảo ba bài học mà
ngài được soi sáng.
Ngài luôn như người
chịu đóng đinh ở nội tâm. Ngài thường
nói là một con người chiêm niệm tự hài ḷng đến
đâu đi nữa cũng không thể vui vẻ được,
không chỉ v́ người ấy thấy hiếm có tâm hồn
được tràn đầy ân sủng và hầu như tất
cả mọi người đều không biết đến
đời sống Đức Tin tinh tuyền, mà c̣n bởi
v́ khi xem xét t́nh trạng tâm hồn bản thân, người ấy
thấy nó c̣n nô lệ cho lắm bất trung và khốn khổ
khiến người ấy phải rên siết không ngừng. »
(Brisacier, 112, Amep, tập
122).
Chết đuối hụt :
(Hành tŕnh trên đất Xiêm)
Đức cha kể lại
rằng :
« Mọi sự
đă sắp sẵn xong để lên đường
đi tới kinh đô vương quốc Xiêm La mà tiếng
địa phương gọi là Judia [sic], c̣n chúng tôi th́ gọi
là Xiêm. Các thừa sai rời Tenasserim ngày 30 tháng 6 đi Jalingua
trên ba chiếc xuồng nhỏ, có mái lá che trên đầu. Mỗi
chiếc xuồng có ba ông lái chèo mà chúng tôi thuê khoảng 12
đồng ê-cu một chiếc. Phải lo ăn uống và
ngủ nghỉ ngay trên thứ xuồng đó, v́ không thể
qua đêm trên đất liền được, bởi
toàn là rừng rú đầy cọp beo, cá sấu và các giống
thú dữ ăn thịt khác nữa. Chúng tôi tới
được Jalinga vào ngày mùng 6 tháng 7 tiếp đó. Chuyến
đi này được hạnh phúc v́ con xuồng chở
giám mục Béryte và thừa sai Deydier bị đắm (Ce
voyage fut heureux aux missionnaires par le naufrage que fit le bateau où
étaient Mgr de Béryte et M. Deydier). Đó là lúc ngang qua một
đoạn sông mà ḍng nước chẩy rất xiết.
Hai chiếc xuồng kia đă qua khỏi được một
hồi rồi ; nhưng con xuồng này th́ lại không
sao vượt qua được, liền bị cuốn
theo ḍng nước và bị đập vào một thân cây khô
ngă nằm trên mặt sông. Giám mục Béryte, chẳng hề
biết bơi biết lội, tự cứu lấy mạng
ḿnh bằng cách bám vào mà leo lên ngồi vắt ngang hai chân
trên cây khô đó như thể một người đang
cưỡi ngựa đi vậy. Rồi cứ ngồi chết
ở đó cho tới khi người ta tới cứu
đưa xuống. Cùng với thừa sai Deydier, ngài tọa
đấy mà ngắm con xuồng của ḿnh bị cuốn
vào vực sâu. Sau, có một con xuồng trên đường
trở về Tenasserim ghé tới, và chúng tôi thuê đi Jalinga
chỉ c̣n cách đó ba hay bốn giờ đồng hồ. »
(« Kư Sự », Amep, tập 121, trang 628).
Bị đ̣n tên say rượu :
(Trên hành tŕnh tới Xiêm La).
Ngày 29.07.1662, Đức
cha Lambert bị đ̣n của một tên say rượu. Ngài
kể :
« Chúng tôi lên
đường ngày 29 tháng 7. Phải quen với những loại
xe ở địa phương này là những cỗ xe do ḅ
kéo. Chúng tôi thuê 5 cỗ xe như vậy, với giá là 10
đồng ê-cu một cỗ xe, để đưa chúng
tôi tới Pipely. Hồng ân mà giám mục Béryte nhận
được từ Thiên Chúa vào hôm đó thật là lớn
khiến phải kể ra với các bạn hữu. Nhân có
chuyện ẩu đả xảy ra giữa người
thông dịch, các tay đánh xe của các thừa sai và các tay
đánh xe say rượu khác. Những tên say rượu này
không muốn để cho các xe chở các thừa sai
được đi qua đó. Giám mục Béryte muốn tới
giàn xếp chuyện lộn xộn, đă bị một tên
say giáng cho ba cú gậy to. Ngài đă chấp nhận lấy
cách vui vẻ đến rơi nước mắt ra (il eut
complaisance et joie jusqu’aux larmes), v́ ngài đă nhận lănh theo ư
muốn của Đấng Quan Pḥng và ngay trong lúc thi hành
ơn gọi của ḿnh. » (« Kư Sự », Amep, tập
121, trang 629).
Như chết đi trong
ḷng :
Tại Juthia, quăng tháng
4 năm 1663, nghe tin Đc Pallu và nhóm thừa sai Pháp theo ngài sắp
tới đất Xiêm, Đc Lambert liền xin giấy thông
hành sẵn và sai cha Bourges đem tới Tenasserim đón chờ
trước. Ở nhà, Đc Lambert và cha Deydier quyết
định sẽ sai cha Bourges trở lại châu Âu, c̣n hai
ngài th́ đi
« Người bạn
đồng sự rất yêu quư không về kịp thời
để có mặt vào lúc các con tàu trẩy đi, điều
khiến chúng tôi phải suy nghĩ bàn bạc rất nhiều,
tại v́ thật là như chết đi trong ḷng lúc phải
xa nhau mà không nh́n thấy nhau, không chuyện tṛ được
với nhau về cuộc hành tŕnh của ngài trở lại
châu Âu, mà ngài chưa hề được thông báo cho biết. »
(Amep, tập 121, trang 645).
Tại Đàng Ngoài
1669-1670 :
- « Vị chủ
chăn cần thận trọng và tự buộc phải biết
nhượng bộ những quyền lợi của ḿnh,
vào thời kỳ khó khăn, hầu lo việc của Chúa
và của Giáo Hội được tốt đẹp
hơn. » (Kư Sự, 116, Amep, tập 677, trang 200).
- « Các tu sĩ là
để giúp đỡ Giáo Hội, chứ không để
cai quản Giáo Hội. » (Kư Sự, 117, Amep, tập 677,
trang 201).
Ư vua, ư Chúa :
(Tại Ajuthia, ngày 21.5.1674)
« Vua Xiêm đồng
ư cấp giấy thông hành cho Đc Pallu sang Đàng Ngoài và cho
mượn 6 cỗ sùng đại bác bằng đồng,
cấp thuốc súng và đạn, với tất cả ḷng
hào hiệp. C̣n đối với Đc Lambert, nhà vua cho biết
là nhà vua sẽ rất vui mừng nếu Đc ở lại
trong vương quốc. Tuy vậy, v́ nhà vua không muốn
dùng áp lực lên Đc, nhà vua đă sai một vị quan tới
tuyên bố cho Đc biết chiều hướng của
nhà vua, đồng thời cho Đc hiểu rằng ngôi
thánh đường sắp được xây lên là do bởi
ḷng vua yêu kính Đc, và việc Đc ở lại đây là
điều hệ trọng để bảo tồn bang
giao bằng hữu với vua nước Pháp, mà nhà vua Xiêm
muốn gửi một sứ bộ sang đó sớm nhất
có thể.
Đc Laneau và cha
Courtaulin cố gắng thuyết phục Đc Lambert nhận
cuộc hành tŕnh sang Pháp, v́ lư do những sứ bộ mà cuộc
truyền giáo có thể đón nhận, [nghĩa là các thừa
sai sẽ có thể tạo nên những bang giao giữa các
nước với nhau] và cơ hội sứ bộ của
vua Xiêm sang Rôma và sang Pháp rất thuận tiện cho chuyện
trên.
Đc Lambert trả lời
rằng ngài biết rơ là ngài được sai sang xứ
Đàng Trong, nhưng ngài không biết Chúa đ̣i hỏi ngài
đi Pháp, hay ở lại đây ; và là chuyện nguy hiểm
khi lo công việc mà ḿnh không biết chắc thánh ư của
Chúa về việc đó. » (« Nhật Kư », Amep, tập
877).
Tham khảo ư kiến :
(Tại Ajuthia).
Đức cha Pallu
đến hỏi ư kiến Đức cha Lambert về chuyến
đi sắp tới của ḿnh sang xứ Đàng Ngoài.
Đc Lambert cầu nguyện Chúa cho Đc Pallu, sau đó mới
xin Đc Pallu cho biết ngài nghĩ ǵ về chuyến
đi đó. Đc Pallu trả lời :
« Tôi nghĩ ḿnh sẽ
phạm một sự bất trung, nếu có dịp đi
mà lại không chịu đi. »
Nghe thế, Đc
Lambert đă không dám đề cao ánh sáng riêng của ḿnh lên
ánh sáng của Đc Pallu. Theo ánh sáng riêng của Đc
Lambert, th́ nay đă quá trễ để lên đường
ra đi và là tự đặt ḿnh vào nguy hiểm
đương nhiên sẽ bị băo tố đắm tàu.
Đc Lambert suy nghĩ là việc này liên quan đặc biệt
tới Đc Pallu ; mặt khác, Đc Pallu trong chuyện
này đă đặt ḿnh vào sự may rủi, v́ t́nh yêu tinh
tuyền đối với Thiên Chúa và với bổn đạo
của ngài. Ngài có thể đă tin tưởng rằng Chúa
nhân lành sẽ bù đắp mọi sự xem ra phản lại
với lư trí con người.
(theo Nhật Kư ngày
24.07.1674).
(Ngày 21.08 sau đó, Đức cha Pallu lên
tàu rời Xiêm sang Đàng Ngoài, bị băo đưa vào Phi Luật
Tân, và người Tây Ban Nha bắt ngài giải về toà án
tại triều đ́nh Madrid.)
Chia tay lần
cuối :
« Ngày 12.8.1674.- Đc Lambert dẫn kèm Đc Pallu
đi suốt hai dặm đường, trong ṿng hai giờ
đồng hồ, cùng bàn luận với nhau công việc
truyền giáo. Rồi họ ôm hôn nhau và cùng hẹn cầu
nguyện hy sinh cho nhau. » (« Nhật Kư », Amep, tập
877).
(Rồi Đc Pallu lên
đường rời
Cảm
tính :
Nhân một chuyện tranh chấp giữa hai cha ḍng
Phanxicô, Đc Lambert nhận xét về các tu sĩ tại
Juthia :
« Ngày 29.10.1674.- Tất cả các tu sĩ khốn khổ
này chỉ nghĩ tới thỏa măn cảm tính đam mê của
ḿnh, tới việc gây sự và nói ngược lại các
giám mục, chẳng hề ưu tư chi về
gương mù gương xấu, và về sự thiệt
hại cho đạo. » (« Nhật Kư », Amep, tập
877).
Mai :
Ngày Tết Nguyên Đán tại Juthia, 24.01.1675, Đc
Lambert ghi nhật kư : « Chúng tôi đă cho phép các Việt
kiều có đạo được trồng cây mai
(« leur may ») trước cửa nhà để mừng
đầu năm mới của họ, mà họ lại cứ
muốn đặt thêm một cây thánh giá để tỏ
ra ḿnh có đạo, mặc dù chúng tôi nào có bắt buộc họ
làm điều ấy. » (« Nhật Kư », Amep, tập
877).
Đau buồn
lắm :
« Ngày 27.2.1675- Chuyến tàu từ Macao đến
cho biết tin Đc Pallu đă cập vào Manila, bị bắt
vào tù ở đó để sẽ bị dẫn độ
về Tây Ban Nha. Tin này khiến các thừa sai đau buồn
lắm. » (« Nhật Kư », Amep, tập 877).
Rời Xiêm sang
Đàng Trong :
« Ngày 28.7.1675.- (Tại giáo xứ Băng Cốc).
Đc Lambert ra bến tàu, sau khi đă phó thác toàn bộ công
cuộc truyền giáo Xiêm La cho Đức Nữ Rất
Thánh Đồng Trinh trước h́nh ảnh của Người
đặt trong nhà thờ Vô Nhiễm Nguyên Tội. »
(« Nhật Kư », Amep, tập 877).
Sợ ông
sư :
(Chuyến đi
Đàng Trong năm 1675).
Trên biển, sau gần một tuần lễ, con tàu
không tiến được bao nhiêu do không có gió thuận,
tuy nhà sư người Hoa trên tàu hằng ngày vẫn khấn
vái cầu cho có gió. Và Đc kể rằng :
« Ngày 08.8.- Chúng tôi quyết định sẽ cầu
xin Chúa ban cho chúng tôi được gió thuận hơn, sợ
rằng nhóm thủy thủ của tàu sẽ cho là lỗi tại
chúng tôi nên không có gió thuận và cho là tại chúng tôi gây
ngăn trở việc cúng vái của nhà sư nên ông ta chẳng
xin được cơn gió nào cả. » (« Nhật
Kư », Amep, tập 877).
Ngày 15 tháng 8
trên biển :
(Chuyến đi
Đàng Trong năm 1675).
« Ngày 14.8.- Các nhân viên trên tàu xin chúng tôi cầu Chúa
cho gió thuận. Chúng tôi hứa với họ là sẽ nhờ
lời bầu cử của Rất Thánh Đồng Trinh, Mẹ
Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là con người, mà họ gọi
là « Ba Ly » và họ nói rằng Bà ta không có cha nào khác
hơn là Trời. Họ có một tấm ảnh của Bà
mà họ đưa ra cho chúng tôi xem và họ sùng kính Bà một
cách đặc biệt.
« Ngày 15.8.- Gió nổi lên mạnh mẽ đến
nỗi người ta chẳng dám giương hết các
cánh buồm ra. Chúng tôi tin rằng đă nhờ ơn của
Rất Thánh Đồng Trinh, là Người đă xin cùng
Chúa cho chúng tôi ân huệ này. » (« Nhật Kư », Amep,
tập 877).
Lời khấn nữ
tu :
Ngày 13.12.1675, tại xứ Bầu Tây (Quảng Ngăi),
Đc nhận lời khấn của 4 trinh nữ. Và chính
tay ngài ghi lại công thức khấn như sau :
« toi la Anna tlăo tai duc thai ca vispo khan hua cu duc chua bloi
giu minh dou tling tú den khi chet va o cu chi em lam moi su
chung. » (« Nhật Kư », Amep, tập 877).
Kẻ bỏ
người thương :
(Tại Juthia)
« Ngày 26.6.1676.- Chúng tôi tiếp tục đọc
thư [từ Âu gửi sang]. Chúng tôi nhận biết rằng
các cha ḍng Tên tại Pháp đă lấy ḷng được các
bạn hữu của chúng tôi tại chủng viện ở
Paris, và các bạn hữu đă sẵn sàng, vào ngày nào đó,
tuyến bố chống các đại diện tông toà, nghĩa
là họ theo phe các cha ḍng Tên.
Chúng tôi c̣n đọc được những thư
khác nhiều an ủi. Các đức hồng y Azolini, Ottobona
và Bona đă nhờ Đc Pallu đang ở Rôma nói lại với
Đc Bêryte rằng các đấng sẽ ủng hộ ngài
và sẽ t́m cách sửa chữa những chia rẽ trong Giáo
Hội do các thừa sai ḍng Tên gây ra. » (« Nhật
Kư », Amep, tập 877).
Ngày 28 tháng
01 :
Đc Lambert đang tĩnh tâm 40 ngày tại giáo xứ
Vô Nhiễm ở Băng Cốc. Ngài viết :
« Ngày 28.01.1677.- Tôi nh́n thấy hôm nay chính là ngày tôi
chào đời. Tôi tạ ơn Chúa đă ban đời
người (l’être = hữu thể) mà tôi nhận
được từ Ngài (de l’être qu’on a reçu de lui),
và cầu xin Chúa hăy sử dụng con người tôi, bằng
hành động trực tiếp của Ngài, vào những ǵ
là ích lợi nhất cho danh Chúa và cho việc hoán cải các
linh hồn. Và để đạt được hồng
ân trọng đại đó từ ḷng nhân lành của Chúa,
tôi đă dâng hy lễ bàn thánh. » (« Nhật Kư »,
Amep, tập 877).
Bữa
cơm huynh đệ :
(Tại Juthia)
« Ngày 10.6.1677.- Các Đc cho mời ba cha ḍng Đa
Minh người Bồ Đào Nha tới dùng bữa cơm
chung, để thắt chặt sự hiệp nhất và
để làm những công việc của Chúa được
tốt hơn. » (« Nhật Kư », Amep, tập 877).
Áo cà sa :
« Ngày 22.9.1677.- Chúng tôi đă bàn luận xem chúng tôi
có thể mặc áo của một vị sư và rao giảng
phúc âm trong tư thế đó không, lư do là v́ những điều
thiện hảo lớn lao từ đó mà đến về
việc hoán cải các linh hồn. Và [chúng tôi đă bàn luận]
xem chúng tôi phải để cho người dân Xiêm mặc
bộ áo này không, khi Chúa ưng cho họ trở lại
đạo. Về điều trên, giám mục Bêryte đă
thuận ư khi ngài trả lời cho giám mục Métellopolis là
người đă hỏi ư kiến ngài về việc này.
« Ngày 23.9.- Chúng tôi c̣n bàn luận sâu rộng đến
cùng vấn đề hôm qua và chúng tôi đă giữ vững
cũng ư kiến [hôm qua].
« Ngày 30.9.- Chúng tôi nhận được thư của
giám mục Métellopolis [đang ở Băng Cốc] cho biết
ngài đă rửa tội, hôm chúa nhật, một phụ nữ
và dạy dỗ nhiều tân ṭng, trong số đó có các nhà
sư. Ngài rất phấn khởi khi biết ư kiến của
giám mục Bêryte đă gửi đến về vấn
đề y phục các nhà sư, [theo đó] người ta
có thể để cho họ mặc y phục này sau khi chịu
phép rửa tội, và các thừa sai có thể mặc y phục
nhà sư khi họ có nhiều hy vọng sẽ đem lại
hiệu quả [trong việc truyền giáo]. » (« Nhật
Kư », Amep, tập 877).
Khoan dung :
« Ngày 16.01.1678.- Chúng tôi có tin tường tận về
cuộc sống bê tha của nhiều giáo sĩ và một
vài tu sĩ ở khu người Bồ Đào Nha [tại
kinh đô Xiêm La]. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ càng, chúng
tôi tin rằng phải khoan dung với điều mà chúng ta
không thể ngăn cấm được, ít nữa là không
gây ra gương xấu lớn về tôn giáo. (Il fallait tolérer ce qu’on ne pouvait empêcher). (« Nhật Kư », Amep, tập
877).
Ăn thịt :
Có một nhà sư Phật
giáo Việt kiều muốn theo đạo, đă bỏ
chùa vào ở trong chủng viện thánh Giuse tại Juthia.
Đc kể :
« Ngày 26.5.1678.-
Người ta nói chuyện rằng nhà sư của chúng tôi
muốn thề hứa không ăn thịt ăn cá, như
nhiều vị sư bên
Như kẻ đă chết :
« Ngày 21.07.1678.-
Đc Lambert được tin rằng các kẻ thừa tự
của ngài [bên Pháp] đă chia chác với nhau tài sản của
ngài mà không hề có lệnh của ngài và họ tự ư ban
quyền riêng cho họ. Đc chúc tụng Chúa khi thấy người
ta đối xử với ngài, ngay lúc c̣n sống, như là
một kẻ đă chết vậy. » (« Nhật
Kư », Amep, tập 877).
Ḍng nhật kư cuối cùng :
« Ngày 15.08.1678.- Quan
tể tướng cho người đến xin một thừa
sai Pháp tới tham dự và cho ư kiến về một phiên xử
quan trọng giữa hai người có đạo. Chúng tôi
cáo lỗi v́ là một trong những ngày lễ trọng thể
nhất trong năm. » (« Nhật Kư », Amep, tập
877).
Di chúc :
« Điều Một.- Tôi ao ước sống và chết
trong niềm tin của Hội Thánh công giáo, tông truyền và
Rôma, và trong sự vâng phục trọn vẹn đối với
Đức Thánh Cha.
« Điều Hai.- Tôi lưu lại cho nhà thờ của
quư cha ḍng tên ở Macao, để chứng tỏ t́nh cảm
mà tôi dành cho quư cha, tượng Thánh Giá mà bào đệ của
tôi đă trối lại cho tôi mấy ngày trước khi
qua đời. », (« Di chúc », Amep, volume 8, trang 150).
< >