Công đồng
Ajuthia năm 1664
Ngày
22.8.1662, Đc Lambert đặt chân tới Ajuthia, lúc đó
là kinh đô Xiêm La. Cùng với ngài, có hai linh mục thừa
sai là cha Bourges và cha Deydier.
Gần
một năm sau, ngày 20.7.1663, ngài cùng cha Deydier xuống tàu
đi
Một
tháng sau, ngày 14.10, cha Bourges rời Ajuthia, lên đường
về Pháp.
Sang
năm 1664, ngày 27.1, Đc Pallu cùng bốn linh mục và một
giáo dân tới được Ajuthia.
Như
thế, vào thời điểm đó tại Xiêm La, nhóm thừa
sai Pháp gồm tất cả là hai giám mục, năm linh mục
và một giáo dân. Họ sẽ làm gì trong năm 1664 này ?
Chúng ta biết gì về công đồng Ajuthia cử hành vào
năm đó ? Về « Huấn Thị gửi các thừa
sai » (Monita ad missionarios) ? Nhất là về « Hội
Dòng Tông Đồ » (Congregatio Apostolica) ? Và tại sao
Đc Pallu đã không sang Đàng Ngoài lúc đó ? Tại
sao Đc Lambert cũng đã không đi Trung Hoa hoặc sang
Đàng Trong ? Và các vị thừa sai khác đã làm
gì ? Sau cùng, tại sao Đc Pallu trở lại Âu
châu ? Những quyết định chung này đã diễn
ra như thế nào, và vào lúc nào ?
Những
dòng sau sẽ là một cố gắng trả lời cho những
câu hỏi trên, nghĩa là một cố gắng tìm hiểu
về sinh hoạt của các thừa sai Pháp tại Xiêm La
vào năm 1664.*[1]
Chúng
ta sẽ lần lượt xem qua ba phần chính yếu
sau :
-
Năm 1664 tại Ajuthia.
-
Huấn Thị gửi các thừa sai.
-
Hội Dòng Tông Đồ.
I. Năm 1664 tại
Ajuthia
Cha
Bourges đã giới thiệu kinh đô Ajuthia vào những
năm 1662-1664 như thế này :
« Tôi
không tin là có xứ nào trên địa cầu có lắm tôn
giáo mà lại được phép thực hành hơn là tại
xứ Xiêm La. Những lương dân, Kitô hữu và tín đồ
Mahomed, chia ra nhiều giáo phái, tất cả đều
được tự do theo việc thờ phượng mà
mình coi là tốt lành nhất. Người Bồ Đào Nha,
Anh quốc, Hòa Lan, Trung Hoa, Nhật bản, Peguans, Cam Bốt,
Malaque, Đàng Ngoài, Chàm và nhiều dân khác phía miền nam
đều có cơ sở tại Xiêm La. Có tới gần
2.000 người Công Giáo, phần lớn là người Bồ
Đào Nha, từ các nơi khác nhau tại vùng Ấn Độ
Dương, bị xua đuổi nên đến cư ngụ
tại Xiêm La, nơi mà họ lập thành từng khu riêng tạo
nên ngoại ô thành phố. Họ có được 2 nhà thờ
công cộng, một dưới sự điều khiển
của các cha dòng Tên và một do các cha dòng thánh Đa Minh cai
quản. Họ cũng được tự do giữ
đạo y như ở Goa : người ta làm việc
thờ phượng, giảng dạy, rước kiệu
Thánh Thể. »*[2]
Đc
Lambert xác nhận tình trạng đạo công giáo tại
Ajuthia rằng có « gần 2000 linh hồn kẻ có đạo
gần như bị bỏ rơi nơi đây, dù bên cạnh
có tới 4 cha dòng Tên, 3 cha dòng Đa Minh, 2 cha dòng Phanxicô và 4
giáo sĩ triều. »*[3]
Đó
là khung cảnh nơi nhóm thừa sai người Pháp tạm
trú.
*
Đức cha Pallu tới Xiêm La
Như
vừa nói, ngày 27.1.1664, Đc Pallu cùng bốn linh mục và một
giáo dân tới được Ajuthia. Bốn linh mục này
là các cha Laneau, Chevreuil, Hainques và Brindeau ; và ông giáo dân là
ông Chamesson.*[4]
Đc
Pallu kể chuyện các ngài tới được Ajuthia
như sau :
« Chúng
tôi xuống dòng sông thứ hai dẫn tới thành phố
Băng Cốc nơi nó gặp dòng sông Xiêm La. Thành phố
này được xây bên bờ hai dòng sông. Phía bên dòng sông
Xiêm La, có một pháo đài bằng gạch nung, đối
diện bên kia cũng có một pháo đài như vậy.
Chúng tôi thấy có một vài cỗ súng đại bác ở
đó. Chúng tôi ngược dòng sông thứ hai từ trưa
ngày 25 đến ngày 27 cùng giờ thì tới đồn hải
quan Juthia, kinh đô vương quốc Xiêm La. Lòng sông thật
rộng và rất sâu, các con tàu theo đó mà lên tận kinh
đô, đôi bờ xinh đẹp và dân ở khắp
nơi. Tất cả là một khung cảnh thật dễ
chịu. Nhưng chúng tôi không thể cảm thấy niềm
vui cảnh thiên nhiên này khi nghĩ đến Chúa Giêsu Kitô
chưa hề được những dân tộc nơi này
biết đến, và ít kẻ lo phần ích của Chúa chống
lại ma quỷ. Ma quỷ thì quyến dũ người
dân và kềm giữ họ trong những mê tín dị
đoan, dành lấy sự thờ phượng mà chỉ
dành duy nhất cho Thiên Chúa.
Chúng tôi liền
báo tin cho Đức Giám Mục Bêritê. Ngài chưa hề nhận
được tin chắc chắn rằng chúng tôi đã tới
vương quốc này, bởi vì những thư từ mà
chúng tôi viết gửi ngài từ Tenasserim đã không
được trao lại cho ngài. Ngài đã mau mắn giúp
chúng tôi có được giấy tờ mà tự do đi
lên tận thành phố. Vì con thuyền của chúng tôi buộc
phải đợi tới ngày hôm sau do trời tối, chúng
tôi đã dùng một con thuyền mà một anh em thân
thương đã đem đến cho chúng tôi để
đến bên ngài ngay ngày hôm đó. Ai lại chẳng hiểu
nỗi sung sướng mà chúng tôi cảm nhận khi gặp
lại nhau và hồng ân mà chúng tôi phải tạ ơn Chúa
đã rộng ban cho chúng tôi được đoàn tụ lại
vì lợi ích việc truyền giáo. Chúng tôi đặc biệt
vui mừng nhìn thấy một ngôi nhà thờ đã dựng,
một số giáo dân mà Chúa đã cho nhờ sự chăm
sóc tận tụy của ngài. »*[5]
*
Ngày hội ngộ 27.1.1664
Còn
về phần Đc Lambert, ngài tường thuật chuyện
hội ngộ rằng :
« Đc
Héliopolis và các cha Chevreuil,
Brindeau, Hainques và Laneau, thừa sai tông tòa, và ông Chamesson, giáo
dân, đến thành phố Xiêm La, ngày 27 tháng 1 năm 1664.
Vì những thư từ mà người ta gửi cho
chúng tôi từ Tenasserim đã bị chận giữ lại, các
thừa sai ở Xiêm La chỉ được biết các vị
tôi tá trung thành của Chúa đến đây do một trong
các vị ấy đến báo tin. Vị ấy báo rằng
con thuyền của họ bị giữ lại, theo thói
quen, cách thành phố một dặm đàng, chờ đợi
phép được thông hành.
Phép thông hành thì dễ dàng xin được thôi. Họ
được an ủi khi thấy mình đoàn tụ lại
với nhau ngày hôm sau đó do một sự quan phòng thật
đặc biệt của Chúa. Họ đã quy định
cùng nhau ngay từ lúc ban đầu rằng sẽ không nói
chuyện tin tức nào trong 3 ngày, và sẽ chỉ lo tạ
ơn lòng nhân lành của Chúa đã cho họ được
gặp nhau cách rất đỗi lạ lùng như thế. » *[6]
*
Ba ngày hay năm ngày ?
Lòng
đạo đức và khả năng tự chủ của
nhóm thừa sai người Pháp này thể hiện ra trong việc
họ cùng quyết định giữ thinh lặng, không hề
trò truyện hay trao đổi tin tức gì trong vòng mấy
ngày. Họ chú tâm cầu nguyện tạ ơn Chúa đã cho
họ gặp lại nhau cách lạ lùng như vậy.
Tuy
nhiên, có một thắc mắc nhỏ ở đây : họ
đã thinh lặng ba ngày hay năm ngày ?
Có
sử gia nói là : ba ngày,
như Jean Guennou, Alain Forest, hay Françoise Fauconnet-Buzelin.*[7]
Lại
có sử gia nói là : năm
ngày, như Adien Launay, Louis Baudiment, Dirk Van der Cruysse, hay
Gilles van Grasdorff.*[8]
Theo
chúng tôi nghĩ, sở dĩ có sự sai biệt như vậy,
trước tiên, là do đã có sự sai biệt ngay trong
chính các văn bản nguồn rồi.
Đc
Lambert nói tới chuyện này ở hai văn bản khác
nhau : trong lá thư gửi cha Gazil tại Paris và trong ký sự
truyền giáo của ngài.
1,
Về lá thư gửi cha Gazil đề ngày 11.2.1664, chúng ta
hiện có được hai bản : bản bút ký chính
tay Đức Cha viết (AMEP, vol. 858, p. 71) và bản sao lại
(AMEP, vol. 121, p. 567). Cả hai bản văn đều ghi
là : ba ngày.
« Khi
Đức cha Héliopolis và bốn thừa sai yêu quý của
chúng ta và ông Chamesson đến đây, vì cẩn thận, tôi
đã xin các ngài rằng chúng ta sẽ không nói chuyện tin tức
nào trong ba ngày. »*[9]
2,
Về ký sự truyền giáo, chúng ta hiện có được
hai bản : bản AMEP, vol. 876, p. 72, (đây có vẻ là
bản chính, và ghi là : 3 ngày) ;
và bản AMEP, vol. 121, p. 661, (đây là bản sao chép lại,
ghi là : 5 ngày)
« Họ
đã quy định cùng nhau ngay từ lúc ban đầu rằng
sẽ không nói chuyện tin tức nào trong 3 ngày,
và sẽ chỉ lo tạ ơn lòng nhân lành của Chúa đã
cho họ được gặp nhau cách rất đỗi
lạ lùng như thế. »*[10]
Khi
xuất bản cuốn Histoire de la Mission de Siam. Documents
historiques, Tome I, (trang 11), vào
năm 1920, Adrien Launay đã chọn bản AMEP, vol. 121,
p. 661. Do đó, tất cả những sử gia sau này,
ai căn cứ theo cuốn sách trên của Adrien Launay đều
viết là nhóm thừa sai Pháp đã thinh lặng năm ngày. Đấy là
trường hợp các sử gia Louis Baudiment, Dirk Van der
Cruysse, hay Gilles van Grasdorff.
Sự
thực lịch sử, như chúng ta thấy, là : ba ngày.
Tuy
nhiên, điều này không phải là điều quan trọng.
Điều đáng chú ý là lòng đạo đức, sự
tự chủ và cách thức sống đạo nơi các
ngài.
Và
chúng ta cũng học được rằng khi lập lại
điều người khác nói, đôi khi là lập lại
cái nhầm lẫn của người ta đó.
*
Mệt nhọc và bệnh hoạn
Các
vị thừa sai vừa đến thì rất mệt mỏi.
Họ cần phải nghỉ ngơi. Cha Laneau lại bị
bệnh thủy thũng. Cha Chevreuil thì kiệt quệ sức
lực. Đức cha Pallu bị chứng đau bụng
liên tục. Trong lá thư đề ngày 7 tháng 2 gửi cho
các cha giám đốc Chủng viện Paris, ngài còn nói :
« Từ khi tôi đến thành phố này đến giờ,
tôi gần như luôn luôn bị đau bụng. »*[11]
Đức
cha Lambert cũng nói chuyện mệt mỏi và bệnh hoạn
của họ trong thư gửi cha Gazil ngày 11.2.1664.*[12]
Đức
cha Pallu cho hay những công việc của ngài khi mới tới
Ajuthia như sau :
« Chúng
tôi dùng mấy ngày để nghỉ ngơi sau những mệt
nhọc cuộc hành trình. Chúng tôi đi chào hỏi những
người quen biết và tất cả các bạn hữu.
Tôi muốn nói các người Âu châu là người Bồ
Đào Nha, người Anh và người Hòa Lan định
cư tại thành phố này, và cách riêng là các cha hội dòng
Tên và các tu sĩ dòng thánh Đa Minh. »*[13]
Những
người mà Đc Pallu vừa nêu ra trên đều là
người Âu. Dù họ khác nhau về quốc tịch và về
tôn giáo, người Anh và người Hòa Lan theo Tin Lành, họ
vẫn thấy gần gũi nhau nơi đất khách quê
người. Sau này, các thừa sai người Pháp sẽ gặp
phải nhiều khó khăn, không từ người Tin Lành,
nhưng từ người công giáo, nhất là từ các tu sĩ
thuộc chế độ bảo trợ truyền giáo.
*
Dự tính lúc ban đầu
Vào
lúc này, tháng 2 năm 1664, cái bận tâm đầu tiên của
nhóm thừa sai Pháp là đi đến nơi Tòa Thánh đã
chỉ định. Họ không thể quên lời căn dặn
của Thánh Bộ trong Huấn Thị năm 1659 :
« Bằng
hết sức lực mình, chư huynh phải cố gắng
không ngừng để đến nơi truyền giáo sớm
nhất có thể. Đó là nơi Thiên Chúa đã gọi
chư huynh. Và chư huynh không được, dù dưới
bất kỳ chiêu bài đạo đức hay bác ái nào, dừng
chân trễ nải hay thay phương đổi hướng
con đường chính của chư huynh, dù chỉ là một
chút. Quả thực, sẽ là một sự bác ái vô trật
tự, nhất là khi chư huynh quay lưng lại nỗi
khốn khổ của những dân tộc đã được
trao phó cho chư huynh để đi phục vụ những
dân tộc khác. » (Phần
II, đoạn 4).
Louis
Baudiment cũng nhìn nhận rằng, đối với
Đc Pallu lúc đó, « một trong những ý tưởng
đầu tiên của ngài là thâm nhập vào được
xứ Đàng Ngoài yêu quý của mình »*[14].
Lúc
đó, nền thương mại đường biển
giữa Xiêm La và Đàng Ngoài hay Đàng Trong chưa phát triển.
Không có nhiều tàu bè qua lại. Nhưng Đc Pallu nghĩ
ngài gặp được cơ may khi nghe tin có một vị
quan theo đạo Hồi, tên Opra Tignera hay Signera, đang
đóng một con tàu nhỏ để đi buôn hàng hóa sang
xứ Đàng Ngoài.*[15]
« Khi
tôi đến Xiêm La, tôi chỉ nhớ phải tìm những
phương tiện và đường đi vô Đàng Ngoài
là nơi chính cho sứ vụ của tôi.
Vì sự
buôn bán giao thiệp giữa các cảng Xiêm La và Đàng Ngoài
rất ít nên bắt buộc tôi phải lên tàu của nhà buôn
Hồi giáo, mặc dầu tôi thấy trước là khi chấp
nhận lời đề nghị của họ, tôi phải
chịu tốn kém một chút. Thật vậy, vài ngày sau,
tôi không thể bỏ qua mà không biết tới sự xã giao
lịch thiệp của ông ta, nên tôi cho ông ta mượn
không năm trăm quan tiền ê-cu. Nhưng ông ta đã không
giữ lời với tôi, và sau khi trang bị tàu mà tôi sắp
lên, ông ta tuyên bố là ông ta sẽ không hề đi Đàng
Ngoài. »*[16]
Song
song với ý định đi vào nơi truyền giáo, các thừa
sai Pháp quyết định sẽ để lại tại
Xiêm La hai người trong nhóm họ là cha Deydier và cha Laneau.*[17]
Đc
Lambert cho ông Fermanel hay trong thư ngày 11.2.1664 :
« Chúng
tôi đang làm việc cận lực để xuống tàu
đi xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài, điều có thể
thành tựu được vào cuối tháng 5 hoặc đầu
tháng 6 tới. Ông sẽ biết tin chắc chắn qua những
vị mà chúng tôi sẽ để lại tại thành phố
này hầu dẫn dắt đoàn chiên nhỏ mà Chúa Nhân Từ
đã ban cho chúng tôi nơi đây. »*[18]
Và
cùng ngày, ngài cũng cho cha bề trên Gazil hay rằng :
« Tôi cố
gắng hết sức để ra đi vào tháng 6 tới.
Có thể tôi phải đi trong cùng con tàu đưa Đức
cha Héliopolis sang Đàng Ngoài, ngược với ý thích của
tôi là sang Đàng Trong yêu quý, để tới Trung Hoa mà tôi
không thấy thú vị lắm. »*[19]
Trong
thư gửi cha Bourges vào tháng 2 đó, Đc Lambert có tâm sự
với cha Bourges rằng ngài rất tha thiết mong vào
được nơi truyền giáo và được chết
tại nơi truyền giáo. Nhân một lần nguyện ngắm,
ngài muốn dốc lòng « kiêng thịt và ăn chay suốt
những tháng ngày còn lại của đời mình, trừ
ra ngày lễ Giáng Sinh, Phục Sinh và Hiện Xuống »,
ngay khi nào ngài vào được nơi truyền giáo*[20].
Ngài thêm :
« Tôi
đã cho người nói chuyện với ông Conchy, bạn
những người Hòa Lan, để đưa chúng tôi tới
nơi truyền giáo. Ông ta đã vui vẻ nhận đề
nghị của tôi. Do vậy, hy vọng rằng cùng một
con tàu sẽ đem Đc Héliopolis và cha Brindeau sang Đang
Ngoài, và sau đó đem tôi sang Trung Hoa với hai đồng
nghiệp thân yêu và ông Chamesson. Chúng tôi để lại
đây hai người trong số chúng tôi, vì những lý do mà
cha đã biết. »*[21]
Tuy nhiên, những dự tính ban đầu đó của
các thừa sai Pháp sẽ phải thay đổi rất nhiều
vì các biến cố sẽ xảy đến, và với những
tin tức sẽ nhận được. Chúng ta sẽ thấy
sau. Bây giờ, chúng ta cần đề cập đến một
dự tính khác của các thừa sai Pháp đồng thời
với các dự tính vừa nói trên. Đó là họp công
đồng.
*
Họp công đồng
Đc
Pallu nói :
« Đức
cha Bêritê và tôi, chúng tôi tin rằng trước mặt Chúa,
chúng tôi phải dốc lòng tìm kiếm Thánh ý Ngài qua cuộc
hội thảo chung với tất cả các vị thừa
sai của chúng tôi tại thành phố này. (…)
Thiên Chúa
đòi chúng tôi phải hội họp lại với nhau sớm
nhất có thể (…).
Tiếp
đến, chúng tôi quyết định rằng để
kéo được những ơn lành từ Trời xuống
trên các buổi hội của chúng tôi, những buổi hội
sẽ diễn ra trong suốt Mùa Chay (…) »*[22]
Phần
ngài, Đc Lambert có vẻ hân hoan khi báo tin cho cha Gazil rằng :
« Cha sẽ
vui khi hay biết quyết định của chúng tôi rằng,
trong gần bốn tháng trời chúng tôi sẽ sống chung
với nhau*[23], chúng tôi sẽ
họp công đồng đầu tiên của chúng tôi trong
ngôi nhà thờ nhỏ bé chúng tôi, ngôi nhà thờ đã
được dâng kính thánh Giuse vinh hiển. Đó là một
hiệu quả đặc biệt của Chúa Quan Phòng
đã muốn chúng tôi quyết định chung nhiều sự
vì ích lợi việc truyền giáo của chúng tôi và để
chúng tôi cùng thống nhất với nhau cung cách sinh sống. »*[24]
Mùa
Chay năm 1664 sẽ khởi sự vào thứ Tư lễ
Tro ngày 27.2. Và tháng 2 năm nhuận 1664 sẽ có 29 ngày.
*
Công đồng Ajuthia : tại sao ?
Tại
sao ?
Theo
lời Đc Lambert, họp công đồng vì ba lý do
sau :
« Thứ
nhất : nói chung, để đối phó với những
sự vô trật tự rất lớn và sự vô kỷ luật
của các giáo sĩ triều và các hội dòng tu sĩ trong
khắp các nơi này ; nói riêng, để tránh được
các cái xấu trên và tìm ra phương thế để khỏi
rơi vào đó.
Thứ
hai : để giải quyết nhiều trường hợp
hệ trọng và khó khăn.
Thứ
ba : để thiết định một đường
lối chung cho các thừa sai hầu tất cả đều
giống nhau nhất có thể, về cách hành động
bên trong và bên ngoài. »*[25]
Đc
Pallu cũng thấy rằng hai giám mục cần phải hội
lại với nhau để cùng chung một ý mà quyết
định nhiều điểm tối cần cho cách thức
sinh hoạt chung phải giữ.*[26]
*
Khai mạc công đồng Ajuthia
Chính
Đc Lambert cho biết công đồng được khai mạc
vào ngày cuối cùng tháng 2 năm 1664. Chúng tôi xin dịch thuật
đoạn ký sự của ngài nói về điều này
như sau :
« Sau
khi được biết cuộc đời tươi
đẹp và cái chết hạnh phúc của Đức cha
Métellopolis và các cha thừa sai Meusnier,
Périgaud, Chéreau, Brunel và Danville, và ngài Fortis de Claps, giáo dân, và
sau khi đã thi hành nghĩa vụ sau cùng đối với
các ngài, chúng tôi long trọng khai mạc công đồng vào
ngày sau hết của tháng 2 năm 1664. Công việc rất
đỗi quan trọng này đã khiến chúng tôi không thể
chú tâm vào việc hoán cải các linh hồn như bình thường
có thể làm được. »*[27]
Như
thế có nghĩa là công đồng Ajuthia đã khai mạc
vào thứ 6 ngày 29.2.1664, tại nhà thờ thánh Giuse trong khu
Việt kiều ở kinh đô Ajuthia, xứ Xiêm La.
Chúng
tôi thấy giữa tất cả những sử gia, mà chúng
tôi đọc được, đã đề cập tới
công đồng Ajuthia, chỉ có bà Françoise Fauconnet-Buzelin là
nói tới thời điểm lịch sử này mà thôi*[28].
Ngay cả trong tác phẩm của sử gia rất uy tín, cha
Josef Metzler, chúng ta cũng không biết được công
đồng Ajuthia đã khai mạc vào lúc nào*[29].
Khác với bà Fauconnet-Buzelin, các sử gia đã không nói lên
được, có lẽ vì họ không may mắn gập thấy
tài liệu mà chúng tôi vừa trưng dẫn chăng ?
« Công
đồng này đã khai mở vào ‘ngày cuối tháng
Bà
Fauconnet-Buzelin đã nói thế. Phần đầu câu nói thì
đúng, có trích dẫn cụ thể : « ngày cuối
tháng 2 », dù không cho biết trích dẫn từ đâu. Phần
sau câu nói thì do suy luận riêng, không có trích dẫn. Phần
chúng ta, chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu xem công đồng
diễn tiến ra sao, kéo dài bao lâu và kết thúc vào thời
điểm nào.
*
Tại công đồng Ajuthia
Để
biết qua về đề tài và cách thức làm việc của
các thừa sai Pháp trong công đồng Ajuthia, chúng ta sẽ
đọc lại vài trang tập Đoản Ký của Đc
Pallu.*[30]
« Trước
hết, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi phải bảo đảm
mình tránh khỏi mọi sự có thể hướng tới
sự buông lỏng mà chúng tôi có thể từ từ dấn
thân vào, với những lý do bề ngoài xem ra có vẻ
như cho phép được xử dụng.
Thứ
đến, chúng tôi nghĩ rằng bổn phận của
chúng tôi là sớm tìm phương thế nào để loại
trừ hoàn toàn sự buông lỏng và gầy dựng những
việc thực hành thánh thiện và nghiêm ngặt hơn một
chút, có thể nên gương mẫu cho mọi người,
mà đặt hết lo lắng và tâm trí mình vào đó, theo
đúng như tầm quan trọng của sự việc và
danh dự chức vị chúng tôi đòi buộc.
Và sau cùng,
để cho mình không bị nhầm lẫn bởi những
quy tắc sai lệch, chúng tôi có trong tay cuốn Phúc Âm, bộ
Giáo Luật, các Hiến Chương của các Đức
Giáo Hoàng, các Sắc Lệnh đặc biệt của Thánh
bộ Truyền bá Đức tin, gương sáng các vị
lo việc tông đồ, nhất là thánh Phanxicô Xaviê mà cuộc
sống, các hoạt động và các bước chân,
nhưng nhất là các châm ngôn nằm trong những thư từ
của ngài cung cấp cho ta những cách sống nghiêm chỉnh.
Cứ tuân theo đó, người ta sẽ hứa hẹn
cho chính mình những thành quả rất tốt đẹp
và tránh được mọi lời trách móc. Bởi
chưng, làm việc thiện không chưa đủ,
nhưng còn phải làm theo những đường lối
trong sáng, thẳng thắn và chính đáng nữa.
Sự suy
xét trên đã từ từ đưa chúng tôi đến cuộc
thảo luận về nhiều vấn đề (…) ».
Đó
là tường thuật của Đc Pallu.
Với
cái nhìn khách quan hơn, một sử gia hiện đại,
Josef Metzler, đã tóm lược cách giản dị và rõ ràng
rằng :
« Công
đồng đã xét về ba đề tài chính :
1, Chỉ
dẫn về phong cách các thừa sai Hội Thừa Sai
Paris, về việc truyền giáo của họ và về tổ
chức công việc truyền giáo ;
2, Thiết
lập một chủng viện để đào tạo các
linh mục địa phương ;
3, Lập
‘Hội Dòng Tông Đồ’.
Các cuộc
thảo luận thì dựa trên Kinh Thánh, giáo lý các Giáo Phụ,
Giáo Luật, các Sắc Lệnh của Giáo Hoàng và
gương mẫu các thánh, cách riêng là thánh Phanxicô Xaviê. »*[31]
Đc
Pallu đã cho chúng ta hay là các thừa sai Pháp muốn cử
hành công đồng trong suốt kỳ Mùa Chay. Và cũng
chính ngài sẽ cho chúng ta biết rằng công đồng
đã diễn tiến qua những buổi hội thảo
khác nhau, tuy chúng ta không rõ là có tất cả bao nhiêu cuộc
họp và lịch trình ra sao. Sau nữa, chúng ta cũng không
rõ là ông Chamesson, giáo dân người Pháp đi theo Đc Pallu,
có tham dự thực thụ vào công đồng này hay không.
Và
trong thời gian diễn ra công đồng, các thừa sai
Pháp còn có những lo lắng và những hoạt động
khác như chúng ta sẽ khám phá ra ngay sau đây.
*
Chúa nhật thứ 1 Mùa Chay
Năm
1664, Mùa Chay đã bắt đầu với thứ Tư lễ
Tro ngày 27.2 và người ta sẽ mừng lễ Phục
Sinh vào ngày 13.4.
Chúa
Nhật thứ 1 Mùa Chay rơi vào ngày 2 tháng 3.
Hôm
đó, nhóm thừa sai Pháp tổ chức nghi thức rước
sách trọng thể, với sự tham dự của các tu sĩ
dòng Tên và dòng Đa Minh từ khu bên cạnh sang. Đó là do
sáng kiến của nhóm Pháp đang tìm cách giao hảo với
các tu sĩ và giáo dân khu Bồ Đào Nha. Dân chúng ở đó
thì chưa hề bao giờ thấy một nghi lễ
như vậy. Họ ngạc nhiên nhìn đoàn giáo sĩ và tu
sĩ, y phục chỉnh tề, nghiêm trang cung kính, người
này theo sau người nọ, thong thả theo đoàn rước.
Rồi
ít lâu sau buổi rước, Đc Lambert ban bí tích Thêm Sức
cho tất cả những giáo dân nào muốn, người Âu
cũng như người Á.
*
Ngày lễ thánh Giuse
Thời
ấy, người công giáo có lòng sùng kính thánh Giuse cách đặc
biệt. Các thừa sai Pháp đã chọn thánh Giuse làm quan thầy
phù hộ cho công cuộc truyền giáo của họ. Đc
Lambert đã dâng kính thánh Giuse ngôi nhà thờ ngài cho dựng
lên tại khu Việt kiều. Năm 1664 này, chưa có chủng
viện thừa sai Pháp tại Xiêm La. Mấy năm sau, khi tạo
lập chủng viện, thì họ cũng sẽ dâng kính
thánh Giuse.
Ngày
lễ thánh Giuse 1664, các thừa sai Pháp mời hai cha bề
trên cộng đoàn dòng Tên và cộng đoàn thánh Đa Minh
cùng các tu sĩ của họ sang tham dự. Và « họ
đã tới với các khí cụ âm nhạc, và ở lại
suốt ngày hôm đó với các thừa sai, dự buổi
chầu bốn mươi tiếng đồng hồ, Thánh
Thể được trưng bầy đêm ngày với tất
cả tự do như trong một xứ công giáo vậy ».*[32]
Tuy
nhiên, cuộc sống ở Ajuthia sẽ không êm đềm,
vui vẻ và hiền hòa như hình ảnh cuộc rước
sách và buổi chầu Thánh Thể đâu. Các tin tức mới
nhận và những biến cố xảy ra sẽ làm đảo
lộn gần như hoàn toàn dự tính ban đầu của
các thừa sai Pháp.
*
Tin Nhật Bản và Trung Hoa
Vào
kỳ đầu Mùa Chay, một con tàu của triều
đình Xiêm La từ Nhật Bản trở về. Người
ta cho hay rằng cuộc bách đạo vẫn tiếp tục
cách tàn nhẫn trên đất Phù Tang. Năm qua, có tới
120 giáo dân chịu tử vì đạo. Và tình hình tại
Trung Hoa vẫn không có gì là khả quan. Nhà Thanh đã tiếm
quyền nhà Minh vào những năm 1644, lập triều
đại mới. Các thừa sai, đặc biệt các cha
dòng Tên, bị nghi kỵ, lại còn bị giam cầm nữa.
Năm
trước, Đc Lambert và cha Deydier đã xuống tàu
đi Trung Hoa. Chuyến đi bất thành, nhưng ngài vẫn
giữ ý định sẽ trẩy sang đó vào dịp
đi biển mùa hè sắp tới. Bây giờ, trước
tin tức vừa nhận về hiện trạng truyền
giáo bất khả thực thi tại Trung Hoa, phải trở
về với thực tế. Người ta « chỉ
còn nghĩ tới chuyện đi Đàng Ngoài và Đàng Trong
mà thôi […] Một con tàu sẽ rời đây đi tới
Đàng Ngoài, Đc Pallu tháp tùng bởi cha Brindeau đã sẵn
sàng xuống tàu. »*[33]
Chúng
ta thấy đã có sự thay đổi so với dự
tính đầu tiên : Đc Lambert sẽ đi Đàng
Trong thay vì Trung Hoa. Jean Guennou cũng có cùng nhận xét :
« Ngài Đại diện Tông tòa thay đổi
chương trình mình và quyết định vào Đàng Trong,
trong khi Pallu sẽ đi Đàng Ngoài. »*[34]
Nhưng
rồi, lại phải thay đổi. Trái với ý muốn
hồi tháng 2 vừa qua, Đc Lambert sẽ không ra đi cùng
trên chuyến tàu này để sang Đàng Trong. Đã xảy
ra những chuyện không như dự đoán.
*
Một con tàu từ Đàng Trong
Mấy
ngày sau con tàu từ Nhật Bản, một con tàu khác của
triều đình Xiêm La trở về từ Đàng Trong.
Đây là « con tàu của thuyền trưởng Robin, thay
vì đi Quảng Đông, đã bị dạt vào bến Hội
An »*[35],
nay về mang theo thừ từ và quà biếu của các cha
dòng Tên đang rao giảng Tin Mừng tại đó.
Các
cha cho biết năm ngoái đã có cuộc bách đạo tại
Đàng Trong. Bốn tín hữu phải chịu tử hình vì
đạo. Họ gửi cho Đc Lambert món quà là một mã
tấu đã chém đầu vị anh hùng đức tin, một
tấm chiếu và một tấm vải thấm máu các vị
tử đạo. Họ còn đề nghị là Đc
Lambert hãy tạm rời lại ý định sang Đàng
Trong, e rằng sự hiện diện của vị Đại
diện Tông tòa với chức phẩm giám mục sẽ
không tạo thuận tiện cho Giáo Hội địa
phương vào lúc này.
Vậy,
Đc Lambert nên lưu chân tại Xiêm La chờ thời
cơ thuận tiện, hay cần phải sang Đàng Trong
là giáo phận của ngài đang gặp khó khăn ?
*
Tám lương dân xứ Đàng Trong
Lại
thêm một chuyện khác, vẫn vào dịp đầu tháng
3 này.
Đó
là chuyện lính Xiêm La bắt giữ một con thuyền có
tám người đàn ông Đàng Trong tại vùng biển
ranh giới giữa Cam Bốt và Xiêm La. Người ta nghi
ngờ họ là những gián điệp của triều
đình chúa Nguyễn. Họ bị giải về Ajuthia.
Nhưng sau cùng, họ được minh oan và được
trả tự do.
Tám
lương dân Đàng Trong lưu lại tại Xiêm La sáu tuần
lễ. Suốt thời gian này, họ được nghe
các thừa sai giảng giải về đạo Chúa. Sau
cùng, bốn người trong nhóm xin chịu phép Rửa Tội
trước khi về quê hương.
Đc
Lambert thấy đây là một cơ hội tốt để
ngài sang Đàng Trong trên chiếc thuyền của tám người
này. Nhưng sau cùng, Đc Lambert đã không ra đi.
*
Đc Lambert cần ở lại Xiêm La
Đc
Lambert thường xuyên nghĩ rằng ngài phải sang giáo
phận của ngài. Nhưng lúc đó, tất cả các thừa
sai đều khuyên ngài nên chờ sang năm tới. Mặt
khác, ngài cần tạm thời ở lại Xiêm La vì lợi
ích của toàn thể công cuộc truyền giáo của họ.
Chúng
ta sẽ thấy, chẳng ai đoán trước được,
nhưng đất Xiêm La đang từ từ trở nên
trung tâm truyền giáo của các thừa sai người Pháp.
Bởi thế, có lẽ cần phải có một người
đứng đầu trung tâm, rộng khôn ngoan và cao bản
lãnh.
*
Cha Chevreuil đi Đàng Trong
Trong
một lá thư viết cho cha Bourges, có lẽ vào tháng 5,
Đc Lambert nói rất mong tin của cha Bourges từ Âu châu.
Ngài còn mong sao Đc Pallu có được tin tức từ
Âu châu trước khi xuống tàu sang Đàng Ngoài. Ngài nói
thêm :
« Về
công việc truyền giáo, cha sẽ biết ý kiến các thừa
sai qua công đồng nhỏ của chúng tôi sẽ kết
thúc trong vòng mười lăm hay ba tuần lễ nữa. »*[36]
Tới
đây, quyết định của các thừa sai là Đc
Pallu sẽ đi Đàng Ngoài với cha Brindeau. Và Đc
Lambert sẽ tạm ở lại Xiêm La. Thay vào đó, cha
Chevreuil sẽ sang Đàng Trong.
Đc
Lambert viết cho cha Gazil rằng :
« Đức
Cha [Pallu] sẽ ra đi trong ít ngày nữa với cha Brindeau
sang Đàng Ngoài trên một con tàu tại đây, con tàu sẽ
đi thẳng sang đấy. […] Cha Chevreuil cũng xuống
tàu trong vài hôm nữa sang Đàng Trong. Cha sẽ làm việc tại
nơi ấy và xem coi sự tôi sang đó có thể gây thiệt
hại nào cho tôn giáo chăng, như các cha [dòng Tên] đã muốn
thuyết phục tôi. Nếu Chúa Nhân Lành vẫn chưa muốn
mở cánh cửa xứ Đàng Trong yêu quý cho tôi, tôi sẽ
lại thử thêm một lần nữa sang Trung Hoa vào
năm tới. »*[37]
Ngày
17.6, cha Chevreuil rời Xiêm La với một thông dịch
viên.
Đc
Pallu không sang Đàng Ngoài với cha Brindeau được,
vì bị tay buôn người Hồi giáo lừa lọc vào
phút cuối như đã nói trước đây. Con tàu
người Hồi giáo trên thay vì đi Đàng Ngoài, sẽ
đổi hướng sang Macao.
*
Bế mạc công đồng
Thành
thật mà nói, chúng ta chưa tìm được sử liệu
nào cho biết chính xác công đồng Ajuthia hoàn tất vào
lúc nào ? nghi thức bế mạc ra sao ? Tuy nhiên, khi
suy xét về những sự cố xảy ra như vừa
kể trên, chúng ta có thể nghĩ rằng công đồng
Ajuthia khai mạc ngày 29.2 có thể đã kết thúc trễ
lắm là trước khi Đc Pallu xuống tàu đi
Đàng Ngoài như dự tính, tức vào khoảng cuối
tháng 5 hay đầu tháng 6.
Công
đồng đã kéo dài hơn dự định. Trước
đây, Đc Pallu đã nói « để kéo được
những ơn lành từ Trời xuống trên các buổi hội
của chúng tôi, những buổi hội sẽ diễn ra
trong suốt Mùa Chay ». Mà nay, Mùa Chay đã qua và người
ta đã mừng Phục Sinh từ hôm 13.4 rồi.
Bây
giờ là mùa hè, và mùa hè là mùa đi biển. Họ cần kết
thúc công đồng để ra đi tới nhiệm sở
truyền giáo. Và rõ ràng là cho tới đầu tháng 6, Đc
Pallu và các thừa sai Pháp chẳng có tin tức chính xác gì về
Giáo Hội tại Đàng Ngoài cả. Và họ vẫn tìm
đủ mọi cách để sang được đó.
Đc Pallu chứng thực rằng ngay trong lúc còn hội
họp công đồng, các ngài vẫn luôn lo lắng tìm cho
ra phương tiện để đến nơi đã
được trao phó :
« Chúng
tôi bận việc một cách rất hữu ích cho công cuộc
truyền giáo của chúng tôi trong những buổi hội họp
thường xuyên giữa chúng tôi về những đề
tài mà tôi đã nêu ra trước đây. Việc này đòi hỏi
chúng tôi phải lo nghiên cứu rất nghiêm chỉnh và liên tục.
Dù thế, chúng tôi vẫn phải lo lắng tìm kiếm những
phương tiện nào giúp chúng tôi đến những
nơi truyền giáo sớm nhất có thể. »*[38]
Đc
Pallu vừa nói đến những « buổi hội họp
thường xuyên » thời cử hành công đồng.
Nhưng ngài lại không nói gì về chuyện công đồng
kết thúc, chuyện mà chúng ta muốn biết. Cái bận
tâm chính nơi các ngài không phải là nói chuyện bế mạc
công đồng, nhưng là phải sớm đến
nơi truyền giáo.
*
Sau công đồng
Kết
quả sau cùng của công đồng là do Tòa Thánh. Nhưng
trong khi chờ đợi phán quyết tối cao, chúng ta hãy
thử nhìn xem thành quả tạm thời của công đồng
ra sao.
Trong
Đoản Ký, Đc Pallu kể rằng :
« Sau
cùng, Đức cha Bêritê và tôi, với ý kiến của các giáo
sĩ, chúng tôi nhận định rằng để có
được nền tảng vững chắc cho dự
định của mình, điều tuyệt đối cần
thiết là :
Thứ nhất,
xin Tòa Thánh đặt vị Đại diện Tông tòa cho xứ
sở và thành phố Xiêm La như thủ lãnh và có quyền tổng
quát trên mọi việc truyền giáo của chúng tôi.
Thứ
hai, thành lập tại Xiêm La một Chủng viện chung
làm nơi học tiếng nói các vương quốc lân cận,
nơi đào tạo các thày giảng và nơi chuẩn bị
chức linh mục cho những ai xét thấy là xứng
đáng.
Thứ ba,
xin phê chuẩn tại Rôma các điều lệ khác nhau mà
chúng tôi xét thấy cần thiết cho cách sống của
chúng tôi, hầu người ta tuân thủ dễ dàng hơn
nếu được Tòa Thánh công nhận.
Thứ
tư, xin quyết định về những khó khăn
quan trọng, hoặc về phong tục tập quán, hoặc
về kỷ luật giáo sĩ tại những nơi này.
Phần đông các nhà truyền giáo thường khổ tâm
không biết phải giải quyết vấn đề này
làm sao, do đó nẩy sinh mối tranh chấp giữa họ
và tổn hại cho đạo.
Sau cùng,
tiên liệu nhiều điểm khác nữa mà sự chuẩn
nhận không phải là ít quan trọng. »*[39]
*
Hai con tàu đến từ Macao
Như
vừa nói trên, ngày 17.6, cha Chevreuil rời Xiêm La đi
Đàng Trong.
Vào
những ngày đó, một con tàu Bồ Đào Nha từ
thành phố Goa cập bến Xiêm La. Con tàu cho hay rằng hai
cha thừa sai dòng Tên cuối cùng tại Đàng Ngoài đã bị
trục xuất từ hồi tháng 11 năm vừa qua. Sang
Batavia, cha bề trên Onufre Borges đã qua đời vào ngày
17.1.1664, và cha người Pháp tên Tissanier thì sẽ qua Xiêm La.
Từ
lúc tới Ajuthia ngày 27.1.1664, nay Đc Pallu mới có tin chính
xác về giáo phận Đàng Ngoài của ngài, tin giáo phận
đang bị bách đạo. Chắc hẳn không phải
là lúc ngài nên tới giáo phận của mình. Và quyết định
sau cùng là Đc Pallu là sẽ không tìm cách tới giáo phận
của ngài vào lúc đó nữa. Ngài kể :
« […]
Trong lúc tôi khẩn nài người Hồi giáo ấy là phải
giữ lời, thì tôi nhận được tin mới về
Đàng Ngoài cho biết cuộc bách hại nổi lên dữ
dội đối với các tín hữu, việc công bố
niềm tin của chúng ta bị nghiêm cấm, và tất cả
các vị rao giảng Phúc Âm bị đuổi khỏi xứ.
Do đó, người ta đoán rằng việc cập bến
của tôi vào xứ này là một điều tai hại
đáng tiếc vì bất tuân lệnh nhà vua, lại một
lần nữa kích thích cơn giận chưa nguôi đối
với các tín hữu mới đó ; họ sẽ bị
đặt vào cơn bách hại khủng khiếp mà không có
linh mục. »*[40]
Một
tháng sau, lại thêm một con tàu Bồ Đào Nha thứ hai
cũng từ Goa đến.
Và
cứ thế, đời sống, sinh hoạt, dự tính…
của các thừa sai Pháp thay đổi nhịp nhàng theo những
chuyến tàu đi đi về về nơi bến cảng
Xiêm La.
*
Hai cha dòng Tên người Pháp đến Xiêm La
Ngày
29.7, hai cha dòng Tên người Pháp tới Ajuthia trên một con
tàu người Hòa Lan từ thành phố Batavia : cha
Tissanier và cha Albier.
Các
ngài là hai linh mục thuộc một hội dòng gần gũi,
là hai đồng hương nơi chốn quê người
xa lạ. Hai cha này đã đem lại rất nhiều tin tức
truyền giáo vùng đó, cũng như tình nghĩa cho nhóm thừa
sai Pháp. Đương nhiên, hai cha ở bên khu Bồ Đào
Nha, trong cộng đoàn dòng Tên, nhưng hằng tuần các
cha đều sang ăn cơm chung với nhóm thừa sai
Pháp.
Những
trao đổi qua lại của họ đã khiến cha
Tissanier soạn thảo ra, vào cuối năm 1664 đó, một
luận văn nhỏ bằng tiếng la tinh, tựa đề :
Religiosus Negociator (Tu Sĩ Lái
Buôn). Cha Tissanier trình bày và lý luận rằng các tu sĩ dòng
Tên không nên làm việc buôn bán.*[41]
Cha
Tissanier đã cho Đc Pallu biết nhiều về Giáo Hội
tại Đàng Ngoài lúc đó. Và phản ứng của
Đc Pallu lúc ấy là :
« Tôi
thú thật là biết được tin tức về cuộc
bách hại này làm tôi rất bối rối, thấy cánh cửa
sứ vụ truyền giáo của tôi khép lại ; và tôi
cảm thấy mong muốn khát khao được cứu
giúp Giáo Hội này nếu phải hy sinh mạng sống. »*[42]
*
Khi công đồng kết thúc
Chúng
ta đã thú nhận không có đủ sử liệu để
biết công đồng Ajuthia kết thúc chính xác vào lúc
nào ? và như thế nào ? Ý riêng chúng tôi là có thể
vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6, như đã
thưa. Về phần Đc Lambert và Đc Pallu, trong ký sự
riêng của cả hai ngài, sau khi tường thuật chuyện
cha Tissanier và cha Albier đến Xiêm La, thì nói :
« Những
công việc của các thừa sai từ khi viết thư gửi
qua ngã Manila và Mexicô vào cuối tháng 5.
Sau khi hoàn
tất công đồng của họ và sau khi đã gieo
đặt những nền móng cho công việc truyền
giáo, công việc của họ là tiếp tục học các
thứ tiếng. »
(Đc Lambert).*[43]
Còn
Đc Pallu thì viết :
« Những
công việc của các thừa sai sau những buội hội
họp của họ.
Cho tới
bây giờ, các thừa sai đã đặc biệt bận bịu
vào việc tìm tòi học hỏi và suy niệm những sự
mà họ luận bàn đến trong các buội hội của
họ. Những buổi hội khá nhiêu khê và mang hệ quả
rất to lớn đó đòi hỏi nhiều sự chú tâm
chăm chỉ.
Sau khi kết
thúc những buổi hội thảo của họ, công việc
của họ là tiếp tục những việc học tiếng. »*[44]
Hai
đoạn văn nhỏ nhưng rất đặc sắc
của hai nhân vật chính trên đây góp phần giúp chúng ta
suy đoán được thêm diễn tiến và kết thúc
của công đồng Ajuthia. Ngoài ra, chúng ta còn có được
vài tài liệu khác có thể soi sáng thêm cho chúng ta về
điểm này. Đó là vài chi tiết liên quan tới « Hội
Dòng Tông Đồ ».
*
Thực hành « Hội Dòng Tông Đồ »
Chúng
ta sẽ trình bày kỹ hơn về « Hội Dòng Tông
Đồ » ở phần tới. Nơi đây, chúng ta
chỉ lưu ý đến sự kiện rằng Đc
Lambert, và các thừa sai khác, đã giữ luật « Hội
Dòng Tông Đồ » tại Xiêm La, như chính ngài kể
ra trong một số thư từ của ngài viết vào
tháng 10 năm đó.
Trước
khi đọc lại những dòng thư của Đc
Lambert viết vào tháng 10 năm 1664, chúng ta cần biết là
việc thành lập « Hội Dòng Tông Đồ » với
những kỷ luật nghiêm ngặt là một trong những
quyết định chung tại công đồng Ajuthia.
Thư
gửi cha Fermanel :
« Chúng
tôi đã dấn thân giữ ơn nghĩa cách vĩnh viễn,
bằng một nghị quyết dứt khoát của công
đồng chúng tôi, mà nhờ ơn Chúa chúng tôi sẽ gửi
đến cha ngay khi có dịp. Niềm hạnh phúc mà các bạn
hữu chúng ta đem lại cho chúng tôi thì thật là khó tin nổi. »
Và
Đc Lambert phấn khởi nói với cha Fermanel rằng thừa
sai sẽ là người sống khó nghèo, chiêm niệm, cô tịnh,
hoàn toàn từ bỏ mình, vác thánh giá bên ngoài, lo việc đền
tội, vân vân ; nghĩa là đúng theo tinh thần « Hội
Dòng Tông Đồ ».
Ngài
thêm lời phê bình :
« Có kẻ
tin mình đã sống nghèo qua ba lời khấn quen thuộc
của họ, chỉ nghèo với dáng vẻ bề ngoài. Ta
gặp kẻ như vậy khi xảy ra chuyện phải
từ bỏ những lợi ích của hội dòng
mình. »*[45]
Thư
gửi hoàng thân Conti :
« Chính
để tránh khỏi mối bất hạnh khốn nạn
như vậy [tức tình trạng buông thả của nhiều
thừa sai] mà chúng tôi đã tin là phải họp công đồng
mà chúng tôi gửi về Rôma và về Pháp, hầu những ai
sẽ tới đây sẽ biết cuộc sống thanh sạch
mà bậc sống của chúng tôi đòi buộc. »*[46]
Những
lời của Đc Lambert gửi cha Fermanel hay hoàng thân Conti
là những lời chê trách đời sống buông thả của
các thừa sai mà ngài đã gặp, và là loan tin « Hội
Dòng Tông Đồ » vừa do công đồng thành lập.
Trong
thư ngày 19.10.1664 gửi em trai ngài là cha Nicolas Lambert, Đức
Cha tâm sự nhiều hơn :
« Ông ta
[một người Pháp từ Xiêm La sẽ về Âu châu] sẽ
mang về cho các bạn hữu chúng ta những huấn thị
của công đồng đã được quyết định
tại đây, với quan điểm mà các anh đã có về
việc thành lập một tổ chức tông đồ.
Anh không có lầm đâu, chính đó là điều Thiên Chúa
đòi hỏi nơi nhóm người nhỏ bé của các
anh, nhưng Ngài đã trì hoãn ban ánh sáng soi dẫn. Cho tới
hiện tại, dự án đối với các anh xem ra tuyệt
đẹp và tuyệt hợp với ơn gọi của
chúng ta đến nỗi Đức Cha thánh thiện [Pallu]
và tất cả các bạn chúng ta đang ở đây*[47], đã
đem ra thực hành, và anh thì thấy như mình bị
cưỡng bức phải bắt chước theo họ.
Anh đã bị lầm trong việc này, vì đã tin rằng
sẽ khó hơn ; nhưng sau khi vào việc và đã cảm
nghiệm lòng nhân từ của Chúa, anh sẽ mạnh dạn
khuyên tất cả ai được gọi vào đời
tông đồ hãy vượt lên trên mọi khó khăn gặp
trước cửa vào. »*[48]
Những
dòng thư của Đc Lambert trên đây là quan trọng, giúp
chúng ta thấy công đồng đã hoàn tất, các thừa
sai đã thực hiện kỷ luật « Hội Dòng
Tông Đồ ». Mặt khác, chúng ta cũng thấy là vào
tháng 10 này, các thừa sai Pháp đã có cơ hội gửi
thư từ và nhất là kết quả công đồng
Ajuthia về Âu châu.
*
Tìm những con đường
Hãy
trở lại vào mùa hè.
Tới
những ngày tháng 6 và tháng 7, Đc Lambert đã không thể
đi Trung Hoa, cũng không thể sang Đàng Trong như dự
tính. Cha Chevreuil đã rời Ajuthia ngày 17.6 và đến
được Hội An ngày 26.7 sau. Đc Pallu thì cũng
không đi tới Đàng Ngoài được như dự
tính. Cánh cửa vào miền truyền giáo như khép lại
ngay trước mắt họ. Liệu còn có những con
đường nào khác khả dĩ dẫn tới miền
truyền giáo chỉ định chăng ?
Mới
đây có những di dân người Trung Hoa đến
Ajuthia. Các thừa sai Pháp đến gặp gỡ và hỏi
thăm. Các ngài nghe họ nói đến con đường
từ Xiêm La đi ngang qua xứ Pêgu và xứ Ava (nay thuộc
Miến Điện) dẫn sang Trung Hoa. Nhưng vì chiến
tranh, tạm thời không thể lưu thông trên nẻo
đường ấy.
Cũng
còn con đường xuyên Lào, ít nguy hiểm hơn : từ
Ajuthia tới Porcelouc là 20 ngày, từ Porcelouc tới Contai là
8 ngày, từ Contai đến Kintao là 10 ngày, thêm 7 ngày nữa
thì đến kinh đô xứ Lào (mà Đc Lambert gọi là
« Lanian »). Tại kinh đô Lào thì sẽ gặp đầy
dẫy các thương nhân và sứ thần các vương
quốc Trung Hoa, Đàng Ngoài, Đàng Trong, Cam Bốt. Cái khó
là người ngoại quốc phải có giấy thông hành.
« Ít ra, hy vọng rằng trong tương lai, các thừa
sai có thể dùng tới con đường này. »*[49]
Đc
Pallu đã từng mơ tưởng sang tới Đàng
Ngoài bằng ngã Phi Luật Tân hay Lào. Ngài kể trong Đoản
Ký :
« Qua
các thư từ đến từ Manila, tôi được
biết rằng thỉnh thoảng có tàu của người
Tây Ban Nha qua lại Đàng Ngoài, và ngài Tổng Đốc tại
Phi Luật Tân mới gửi sang đó một sứ bộ.
Người
ta cũng cho biết là nhà vua Xiêm La có ý định làm một
hiệp ước bang giao với vương quốc Lào. Bởi
vì giữa Lào và Đàng Ngoài đường đi qua lại
tự do, tôi tin rằng đến Lào thì đi Đàng Ngoài
dễ hơn.
Nhiều
lý do khác nhau đã cản trở tôi dùng đường Phi
Luật Tân. Tôi bèn theo lời khuyên bạn hữu định
thử đi đường Lào, tuy ít người lui tới,
rất dài và lắm rủi ro. Nhưng viên quan lo
thương mại Xiêm La, người mà tôi phải liên hệ
để xin hộ chiếu, phản đối ý định
này. Ông cho là có người Âu thì việc vào xứ Lào có thể
sinh ra những nghi ngại và phương hại đến
công việc làm ăn của Chủ nhân ông ta [tức nhà
vua]. Vậy, đành phải chịu thua, dù tôi đã hết
sức lo liệu kỹ lưỡng, mọi nẻo
đường dẫn vào Đàng Ngoài đều khép chặt. »*[50]
Các
thừa sai rất năng động tìm đủ mọi
cách để vào tới nơi truyền giáo. Nhưng,
như Đc Pallu nói, mọi nẻo đường đều
khép chặt.
*
Đc Pallu sẽ đi Âu châu
Chúng
ta đã thấy vào tháng 10, các thừa sai Pháp gặp cơ hội
gửi thư từ và nhất là kết quả công đồng
Ajuthia về Âu châu. Và sử gia Jean Guennou thêm rằng :
« Cho tới
ngày 21.10.1664, hoàn toàn không hề có chuyện đề cử
bất kỳ ai về Âu châu cả. Cách nhau mấy ngày,
đã có hai dịp để viết gửi thư từ,
qua đó họ đã gửi đi nhiều thư tín, kể
cả những nghị quyết của công đồng. Vào
kỳ cuối năm, hai giám mục đã trao đổi ý
kiến với nhau. Họ nhận thấy rằng một
trong hai người cần phải trở về Paris và
Rôma. »*[51]
Đúng
thế, những lá thư cuối cùng của Đc Lambert viết
trong năm 1664 mà chúng ta còn tìm lại được, đề
ngày 21.10.1664, không hề nói năng chi tới chuyện đề
cử ai về lại Âu châu cả. Lời khẳng định
của Jean Guennou không phải là không có căn cứ.
Nhắc
lại chuyện này, chính Đc Pallu nói rằng :
« Chúng
tôi tin rằng cần một người trong chúng tôi đi
Âu châu để theo đuổi việc thực hiện và
quyết định về bao nhiêu điều đã dự
kiến, bao nhiêu vấn nạn phải giải quyết, rất
nặng nề và rất hệ trọng. Các sự việc
đó chỉ có thể đề xuất, giải thích và tiếp
tục theo đuổi bởi một trong các giám mục mà
thôi. Phận sự của ngài sẽ là giúp chấp hành tuân
thủ các điều sẽ được quyết định
và hoàn tất tại Rôma. […] Nhưng vào lúc ấy, sức khỏe
của ngài [Đc Lambert] rất yếu, chúng tôi không tin là
ngài hứng chịu nổi, lần thứ hai, công việc
và hiểm họa một cuộc hành trình kéo dài hai năm.
Do đó, vì lợi ích gìn giữ cho vị giám mục này,
trong khi nhờ ơn Chúa tôi lại tràn đầy sức sống,
tôi bó buộc phải hy sinh cho cuộc thương lượng
này. »*[52]
*
Đc Lambert giải thích
Mọi
người công giáo tại Paris, tại Rôma, tại Âu châu
chờ đợi các anh hùng thừa sai đi rao giảng lời
Chúa, cứu các linh hồn và mở mang Giáo Hội. Chẳng
ai chờ đợi các ngài trở về Âu châu làm gì.
Hơn ai hết, Đc Pallu và Đc Lambert hiểu cái hình ảnh,
cái kỳ vọng và cái lý tưởng đó, nhất là
nơi quý vị ân nhân. Bây giờ, Đc Pallu trở về.
Chuyện có thể rắc rối, cần phải giải
thích.
Đc
Lambert nêu ra năm lý do biện minh chuyến trở về của
vị đồng nghiệp :
-
Thứ nhất,
để tường trình hiện trạng đạo công
giáo tại những miền truyền giáo.
-
Thứ hai,
xin thành lập « Hội Dòng Tông Đồ » quy tụ
các thừa sai lại.
-
Thứ ba,
giúp cải tổ tình trạng các tu sĩ tại vùng Ấn
Độ, Nhật Bản và Trung Hoa.
-
Thứ
tư, cổ động Âu châu gửi thêm thừa sai truyền
giáo.
-
Thứ
năm, tường trình nguy hiểm phần rỗi của
gần 2000 người Pháp và nhiều người công giáo
khác đang làm việc cho các tàu Hòa Lan (thuộc ly giáo).*[53]
Đó
là những dòng trong ký sự của ngài. Đương
nhiên, ngài cũng không quên báo tin và giải thích trong nhiều
thư từ riêng của ngài do Đc Pallu đem theo về
Âu châu.
*
Trước lúc chia tay
Đc
Pallu và ông Chamesson rời Ajuthia ngày 17.1.1665.*[54]
Trước
lúc chia tay nhau, hai vị giám mục đã đồng ký tên
vào hai văn kiện quan trọng của công đồng
Ajuthia là :
-
Huấn Thị
gửi các thừa sai.
-
Hiến
chương « Hội Dòng Tông Đồ ».
Hẳn
nhiên, đây là hai văn kiện do mọi thành viên tham dự
công đồng Ajuthia góp ý và soạn thảo. Nhưng với
cương vị giám mục, người triệu tập
công đồng, chữ ký sau cùng của các ngài là quan trọng.
Cũng tựa như các văn kiện của công đồng
chung do tất cả các nghị phụ góp phần soạn
nên, nhưng chữ ký vẫn thuộc về Đức Giáo
Hoàng là người triệu tập công đồng chung.
Chúng
ta sẽ bàn rộng hơn về hai văn kiện nói trên.
&
Sau
hai năm và ba tháng hành trình, Đc Pallu và ông Chamesson đặt
chân được tới kinh thành Rôma ngày 20.4.1667.
Ngài
đã trở lại Rôma không đúng lúc : Đức Giáo
Hoàng Alexandre VII đang liệt giường và sẽ từ
trần ngày 22.5.1667. Một tháng sau, ngày 20.6.1667, được
bầu lên vị kế nhiệm là Đức Giáo Hoàng
Clêmentê IX.
&
II. Huấn Thị
Ajuthia
Chúng
ta đã xác định là vào tháng 10 năm 1664, các thừa
sai Pháp có cơ hội gửi kết quả công đồng
Ajuthia về Âu châu. Điều này rất phù hợp với
nhận định của Jean Guennou :
« Cho tới
ngày 21.10.1664, hoàn toàn không hề có chuyện đề cử
bất kỳ ai về Âu châu cả. Cách nhau mấy ngày,
đã có hai dịp để viết gửi thư từ,
qua đó họ đã gửi đi nhiều thư tín, kể
cả những nghị quyết của công đồng. »*[55]
Bây
giờ, Đc Pallu về tới Rôma. Ngài sẽ lưu lại
đây cho tới ngày 13.12.1667 mới trở sang Pháp. Suốt
những tháng này, đương nhiên, ngài vận dụng hết
khả năng để trình bày và xin Tòa Thánh chuẩn nhận
những điều đã được quyết định
tại công đồng Ajuthia năm 1664. Ngài được
triều kiến Đức Giáo Hoàng vào tháng 10 năm đó.
Ngài
trở về đến Paris ngày 21.1.1668, và được
vua Louis XIV tiếp một tuần sau, ngày 28.1. Tại Pháp,
ngài cho xuất bản tập Đoản
Ký Truyền Giáo và Hành Trình, in xong ngày 28.4. Rồi ngài lại
sang Rôma, và tới nơi ngày 20.11.1668.
Lần
này, ngài sẽ lưu lại cho tới ngày 17.9.1669.
Sau
hai thời kỳ khá dài làm việc tại giáo đô, Đc
Pallu đã xin được sự chấp nhận của
Tòa Thánh về nhiều điều quan trọng*[56].
Chúng ta chỉ đặc biệt lưu ý tới ba điều
sau :
-
Tòa Thánh đặt
xứ Xiêm La dưới quyền điều hành của các
Đại diện Tông tòa người Pháp.*[57]
-
Huấn Thị
gửi các thừa sai, hay Huấn Thị Ajuthia, được
phê chuẩn.
-
Nhưng
chương trình lập Hội Dòng Tông Đồ thì bị
bác bỏ.
Chúng
ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về Hội Dòng Tông
Đồ trong phần tới. Ở đây, chúng ta sẽ
xem qua Huấn Thị Ajuthia.
*
Giới thiệu
Huấn
Thị gửi các thừa sai (Monita ad missionarios) « là
kết quả quan trọng nhất »*[58]
của công đồng Ajuthia.
Đó
là một tác phẩm chứa đựng nhiều kinh nghiệm :
« Chúng con đã nghe nhiều, chúng con đã đọc nhiều ;
nhưng chúng con còn thấy tận mắt nhiều hơn nữa… »
(Thư trình Đức Thánh Cha).
Đó
là một công trình tập thể : « Hợp chung
ý kiến của chúng tôi với ý kiến của các anh em họp
chung lại đây, chúng tôi [Đc Pallu và Đc Lambert] đã
soạn thảo ra những Huấn Thị. » (Tâm
Thư).
Tài
liệu này là một niềm hãnh diện của Hội Thừa
Sai Paris. Vì « giữa tất cả những tác phẩm về
truyền giáo học đã xuất bản cho tới ngày
nay, [Huấn Thị Ajuthia] là tác phẩm đạt thành công
lớn nhất »*[59].
Tính ra, đã có tới 12 lần xuất bản bằng tiếng
la tinh, 3 lần tiếng Pháp và 1 lần tiếng Việt.
« Huấn Thị đã được Tòa Thánh phê chuẩn
hoàn toàn vào năm 1669. Trong hơn ba thế kỷ qua, văn
kiện này được hàng giáo sĩ [sic] dùng làm kim chỉ nam cho
đời sống và hoạt động của mình. »*[60]
Khi
kiểm duyệt Huấn Thị Ajuthia, « thần học
gia lỗi lạc, Jean Bonna, tu viện trưởng tu viện
Saint-Bernard, kiêm cố vấn thần học Thánh bộ Tín
Lý, đã tuyên bố rằng : Quyển Monita tràn đầy
tinh thần tông đồ, phù hợp với đức tin
truyền thống Công Giáo và cần thiết cho các linh mục
đang làm việc tại các xứ truyền giáo vì phần
rỗi những người chưa tin. » (Lời Nói
Đầu).
Năm
1669, việc in ấn Huấn Thị Ajuthia đã do chính
Thánh bộ Truyền bá Đức tin đảm nhiệm tại
nhà in riêng của Thánh Bộ. Công việc hoàn tất ngày
23.7, gồm 150 bản. Sau khi kính tặng Đức Giáo
Hoàng, các vị Hồng Y, v.v., số còn lại được
gửi sang Pháp. Tuy nhiên, khi Đc Pallu lên tàu rời Pháp ngày
11.4.1670, kiện hàng có những ấn bản Huấn Thị
Ajuthia gửi từ Rôma năm trước vẫn chưa tới
tay ngài.
Huấn
Thị Ajuthia được viết bằng tiếng la
tinh. Năm 1920, linh mục Albert Geluy dịch sang tiếng
Pháp. Rồi năm 2004, Tòa Giám Mục Kon Tum dịch sang tiếng
Việt : « Nhắn Nhủ Các Thừa Sai »*[61].
Huấn
Thị gồm mười chương và một phụ lục :
Chương
1 và 2 nói về đời sống tu đức cá nhân của
mỗi vị thừa sai. Chương 3 và 4, về cách thức
làm việc truyền giáo. Chương 5, 6, 7 và 8 bàn từ việc
gặp người chưa có đạo tới việc
chăm sóc các tân tòng. Hai chương cuối, 9 và 10, về
các giáo dân, cộng đoàn tín hữu, các thày giảng và về
việc tiến chức linh mục.
Phần
phụ lục, gồm bốn điểm, bàn rộng
hơn về một số vấn đề giáo lý thường
gặp thấy khi làm việc truyền giáo.
Jean
Guennou, để giới thiệu linh đạo mà Huấn
Thị đề nghị cho các thừa sai*[62],
đã trích dẫn ra câu văn sau :
« Mỗi
ngày Chúa chúng ta sẽ được hiến dâng bởi
chính bàn tay họ trong lễ toàn thiêu đẹp lòng Cha toàn
năng của Ngài. Các Thầy [linh mục] cũng vậy,
họ phải ước mơ hy sinh toàn thể cuộc sống
cho vinh quang cao cả của Chúa và sự cứu rỗi các
linh hồn, trong hiến tế bằng hương thơm
ngào ngạt, trong hiệp nhất hoàn hảo và hòa chung một
ý với Ngài. »
(chương X, tiết 3).
Còn
sử gia Adrien Launay đề cao giá trị và tầm quan trọng
của Huấn Thị Ajuthia trong lịch sử Hội Thừa
Sai Paris như sau :
« Từ
thời đó, mỗi linh mục thuộc Hội Thừa
Sai Paris đều đem theo mình tập Huấn Thị cùng
với cuốn Kinh Nhật Tụng, như một tác phẩm
quan trọng nhất mà họ có được và như tác
phẩm hữu ích nhất để hướng dẫn
nhiệt huyết tông đồ nơi mình. »*[63]
Phần
chúng ta, những người Việt Nam, vốn là những
lương dân được các thừa sai đến rao
giảng Tin Mừng. Huấn Thị Ajuthia đã xem chúng ta
là ai ? đã hiểu ơn cứu độ của Thiên
Chúa nơi chúng ta ra sao ?
*
Ơn cứu rỗi
Để
trả lời câu hỏi vừa đặt ra, chúng ta cần
tìm hiểu một chút về quan niệm thần học hàm
chứa trong Huấn Thị Ajuthia.
Giáo
huấn của Huấn Thị trung thành với Kinh Thánh và
truyền thống của công giáo. Thánh Augustinô được
trích dẫn nhiều nhất, gần 20 lần ; tiếp
đến là thánh Tôma Aquinô, quãng 15 lần ; và vài lần
trích dẫn giáo huấn công đồng Trentô hay các Giáo Phụ
khác.
Về
vấn đề ơn cứu rỗi, lập trường
thần học căn bản của Huấn Thị
là :
« Từ
Adam cho đến ngày nay, con người chỉ đạt
đến hạnh phúc vĩnh cửu bằng những
phương tiện sau : đức tin vào Thiên Chúa duy nhất
và vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng Trung Gian, được nhận
biết minh nhiên hoặc mặc nhiên, và tin vào những tín
điều của đạo. » (ch. 5, tiết 3)
Nói
thế, có nghĩa là để đạt tới sự cứu
rỗi, cần có ba niềm tin :
-
tin Thiên Chúa
duy nhất ;
-
tin Đức
Kitô, Đấng Trung Gian ;
-
tin những
tín điều của đạo.
Điểm
thần học rắc rối nhất, cách riêng đối
với lương dân Việt Nam, có lẽ là điểm thứ
hai : tin Đức Kitô, Đấng Trung Gian.
Bởi
vì, nếu hiểu một cách rộng rãi, người Việt
Nam vốn « tin Thiên Chúa duy nhất », tin có Thượng
Đế, tin có Ông Trời. Sau nữa, nói được
là họ cũng « tin những tín điều của
đạo » theo cắt nghĩa của Huấn Thị
(ch. 5, tiết 1), tức tin rằng :
-
Chỉ có duy
nhất một Thiên Chúa.
-
Linh hồn
con người bất tử.
-
Hạnh phúc
thuộc về đời sau.
-
Duy Thiên Chúa mới
ban cho ta được hạnh phúc đời sau.
-
Và con người
phải làm hết sức mình để đạt hạnh
phúc đó.
Còn
lại đây là vấn nạn « tin Đức Kitô,
Đấng Trung Gian ».
Niềm
tin tối cần để được cứu rỗi
là « tin vào Thiên Chúa duy nhất
và vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng Trung Gian ». Bởi vì,
« ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu
độ ; vì dưới gầm trời này, không có một
danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để
chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu
độ. » (Công Vụ 4, 12). Vậy, phải tin « vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng
Trung Gian, được nhận biết minh nhiên hoặc mặc
nhiên ».
Nhưng
rõ ràng là các lương dân Việt Nam không thể nào nhận
biết cách « minh nhiên »
Đức Giêsu Kitô, vị Trung Gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và con người. Bởi lẽ, chưa hề có ai
đến giới thiệu Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng
của Ngài cho họ biết. Họ không biết và họ
chẳng có lỗi gì về sự không biết của họ
cả. Họ không thể bị kết án về một lỗi
mà họ không hề phạm.
Trái
lại, có thể nói là họ nhận biết Đức
Giêsu Kitô cách « mặc nhiên » không ?
Theo
ý kiến của thánh Tôma Aquinô (+1274), không ai có thể
được cứu rỗi nếu không tin vào Đấng
Trung Gian. « Vì nếu ngay cả lúc họ không có một
niềm tin minh nhiên, họ lại có một niềm tin mặc nhiên vào Đấng Quan
Phòng, tin rằng Thiên Chúa là Đấng giải cứu con
người theo cách thức mà Ngài muốn. »*[64]
Công
đồng Trentô cũng dạy rằng tội nguyên tổ
Adong không hoàn toàn hủy diệt lương tâm con người ;
trái lại, nhờ ơn Chúa thúc đẩy, con người
có thể hướng về ơn công chính hóa.*[65]
Tóm
lại, về vần đề thần học ơn cứu
rỗi, Huấn Thị Ajuthia theo ý kiến của thánh Tôma
Aquinô và giáo huấn công đồng Trentô. Đó là quan niệm
thần học tích cực và khoan dung nhất vào thời
đó. Ngược lại là quan niệm tiêu cực và bi
quan của Luther, Calvin hay phái Giăng Xê ; theo đó, phải
hiểu một cách triệt để những lời
như : « Ngoài Giáo Hội, không có ơn cứu độ »
(extra Ecclesiam nulla salus), « Ai không sinh ra bởi Nước
và Thần khí, thì không thể vào được Nước
Thiên Chúa » (Gioan 3, 4), v.v..
*
Luật tự nhiên
Với
quan niệm thần học tích cực, khoan dung và cởi mở,
Huấn Thị Ajuthia đã theo thánh Augustinô mà tuyên bố một
cách đáng ngạc nhiên rằng :
« Kitô
giáo đã không bị bất cứ thay đổi thiết
yếu nào, từ khi trời đất được tạo
thành » (phụ lục A).
Kitô
giáo đã có từ thời ông Adong và bà Evà hay sao ?
Vâng,
Kitô giáo đã hiện hữu trước khi Ngôi Lời nhập
thể. Đây là giáo huấn của thánh Augustinô. Các thừa
sai Pháp khi gặp gỡ lương dân là tín đồ những
tôn giáo khác, đã thấy cần phải nhớ lại giáo
huấn trên. Về điểm này, thánh Augustinô đã
nói :
« Tôi
bàn tới tên gọi chứ không tới sự việc mà
tên gọi diễn tả. Bởi vì, điều mà ngày hôm
nay gọi tên là Kitô giáo, thì đã hiện hữu từ thời
thượng cổ và ngay từ lúc có loài người cho tới
lúc Đức Kitô nhập thể. Và chính từ Ngài mà tôn
giáo đích thật đã hiện hữu và bắt đầu
mang tên là Kitô giáo. Quả vậy, sau khi Ngài sống lại
và lên trời, khi các Tông Đồ bắt đầu rao giảng
về Ngài và nhiều người đã tin nhận, thì các
môn đồ bắt đầu được gọi là
Kitô Hữu, trước hết tại thành Antioche, như
đã viết (Công Vụ 11, 26). Bởi lẽ đó, tôi
đã viết : ‘Chính từ thời chúng ta, Kitô giáo’,
không phải vì tôn giáo này không hiện hữu từ thời
xa xưa, nhưng là vì tôn giáo ấy nhận được
tên gọi đó vào thời sau này. »*[66]
Huấn
Thị Ajuthia theo quan niệm quen thuộc mà nói con
người có hai cuộc sống : đời này và
đời sau, và có hai bộ luật : tự nhiên và siêu
nhiêu (ch. 5, tiết 3).
Nếu
con người không dập tắt ánh sáng tự nhiên nơi
mình vì phạm tội riêng, con người có thể nhận
ra và tuân thủ « luật tự nhiên của Thiên
Chúa » (ch. 6, tiết 8). Trong chế độ luật tự
nhiên, dù chưa có tên gọi rõ ràng, Kitô giáo đã hiện hữu
và thể hiện như một « tình trạng còn bất
toàn. Đó là giai đoạn đầu tiên hướng về
sự hoàn hảo mà Kitô giáo đã gặp trong luật ân sủng »
(phụ lục A). « Những tín điều đầu
tiên của đức tin » (phụ lục A) đã hàm chứa
trong tôn giáo thuộc luật tự nhiên rồi. Dựa vào
lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết
Thiên Chúa và tôn thờ Ngài. Đó chính là « lề luật
tôn giáo đã được ban cho cha ông và được
truyền cho hậu duệ » (ch. 6, tiết 7).
Các
tín đồ những tôn giáo thuộc luật tự nhiên,
(như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Đạo thờ
ông bà nơi người Việt Nam), một cách mặc
nhiên (hoặc tiềm ẩn), vẫn trông đợi Vị
Cứu Tinh, nhờ những lời dạy dỗ của
các bậc hiền nhân*[67].
Như
vậy, Huấn Thị Ajuthia đã nghĩ rằng các tôn
giáo chứa đựng ít nhiều những tia sáng của
Thiên Chúa. Từ chỗ đó, Huấn Thị khuyên các thừa
sai khi tiếp xúc với lương dân, cần « tránh có
vẻ mang đến cho họ sự giảng dạy hoàn
toàn mới mẻ, nhưng sẽ cẩn thận đối
xử với họ như là họ đã có nắm bắt
chút ít về những chân lý » (ch. 5, tiết 1).
Sau
cùng, còn có những biện bác của lương dân rằng
« Thiên Chúa thật đáng bị cáo vì không lo liệu hay
vì quên lãng, đã chậm trễ nghĩ đến » số
phận của họ. Hơn nữa, « Ngài thiếu lòng
khoan dung và tình thương xót » khi để cho tổ
tiên của họ không biết chi đến Kitô giáo mà phải
chịu hình phạt đời đời. Trả lời của
Huấn Thị Ajuthia là lấy lại giáo huấn của
thánh Tôma Aquinô mà xác định rằng Thiên Chúa đã ban luật
của Ngài trong luật tự nhiên cho mọi người,
không trừ một ai. Dù đó là một « người
bán khai, cho dẫu đang sinh sống nơi núi xa rừng thẳm »
vẫn nhận được ánh sáng soi dẫn của
Thiên Chúa trong nội tâm của mình. Qua lý trí tự nhiên của
mỗi người, Thiên Chúa ban bài học đầu tiên dẫn
dắt họ tới phần rỗi đời đời.*[68]
* Nhận định
chung
Khi
soạn thảo Huấn Thị Ajuthia vào thời kỳ họp
công đồng năm 1664, chưa hề có ai trong số các
thừa sai người Pháp đã đặt chân tới Việt
Nam. Kinh nghiệm về người Việt Nam nơi họ
có lẽ do tiếp xúc với khu Việt kiều tại
Xiêm La hay qua những trao đổi với các vị đã
làm việc tại Việt Nam như cha Tissanier, dòng Tên. Huấn
Thị có nêu ra một kinh nghiệm đặc thù, và đây
là một điều rất ngoại lệ của Huấn
Thị, về « một người Đàng Trong có tinh
thần chín chắn và hơn nữa sâu sắc » (ch.5 ,
tiết 2).
Tinh
thần truyền giáo của Huấn Thị rất cởi
mở, trong khi ngay lúc đó tại bên Pháp và Âu châu, học
thuyết Giăng Xê đang lan rộng. Tóm lại,
-
trung thành với
giáo huấn công đồng Trentô, Huấn Thị Ajuthia nhìn
nhận rằng Thiên Chúa hiện diện và hành động
trong luật tự nhiên ;
-
theo lời dạy
của thánh Tôma Aquinô, Huấn Thị Ajuthia nghĩ rằng
tin vào Đức Kitô một cách mặc nhiên đã đủ
để đạt được sự cứu rỗi
đời đời ;
-
theo lời dạy
của thánh Augustinô, Huấn Thị Ajuthia cho rằng tôn giáo
chân thật đã hiện hữu ngay trong luật tự
nhiên rồi.
Thế
hệ đầu tiên của Hội Thừa Sai Paris quả
là có vẻ bao dung và cởi mở trong những quan niệm
thần học của họ. Đương nhiên, cái bao
dung và cởi mở đó chẳng là gì cả so với sự
tiến bộ của nền thần học ngày hôm nay.
Nhưng phải nhận rằng tinh thần của họ
là tiến bộ so với thời đại của họ.
&
III. Hội Dòng Tông
Đồ
Như
trình bày ở trên, từ Xiêm La trở về Âu châu sau công
đồng Ajuthia, Đc Pallu đã đến Rôma hai lần
và lưu lại khá lâu để làm việc với Thánh bộ
Truyền bá Đức tin. Lần đầu từ ngày 20.4
đến ngày 13.12.1667, tức gần 9 tháng trời ;
và lần thứ hai từ ngày 20.11.1668 đến ngày
17.9.1669, tức 10 tháng trời.
« Tất
cả mọi điều Đc Pallu xin đều
được [Tòa Thánh] chấp nhận »*[69],
chỉ trừ ra việc xin thành lập Hội Dòng Tông
Đồ.
Chúng
ta đã nhắc tới Hội Dòng Tông Đồ. Dưới
đây, chúng tôi xin trình bày chi tiết hơn về Hội
Dòng này và sự từ chối của Tòa Thánh.
* Tài liệu về
Hội Dòng Tông Đồ
Hai
Đức cha Pallu và Lambert cùng các thừa sai Pháp đã quyết
định thành lập Hội Dòng Tông Đồ khi họp
công đồng Ajuthia năm 1664. Bản luật Hội Dòng
Tông Đồ cùng hai công thức khấn được soạn
ra bằng tiếng la tinh tại Ajuthia. Hiện nay, chúng ta
có thể tìm lại được bản luật và hai
công thức khấn trên tại Paris hay tại Rôma :
-
AMEP, volume 169,
p. 1-31.
-
AMEP, volume 116,
p. 375-376.
-
Propaganda
Fide : Archivio Storico, Acta C.P., vol. 1A, fol. 115-121.
Ngoài
ra, nhiều lá thư của Đc Pallu liên quan tới Hội
Dòng Tông Đồ được Adrien Launay xuất bản
trong hai tập sách tựa đề Lettres de Mgr Pallu, tại Paris, năm 1904.
Một
số sử gia đã nói đến Hội Dòng Tông Đồ
này, như :
-
Adrien Launay, Histoire
générale de la Société des Missions Étrangères de Paris, tome I, SĐD, trang 110-113.
-
Louis Baudiment,
SĐD, trang 201-202, 248-249 ;
-
Jean Guennou,
SĐD, trang 122-124 ;
-
Guy-Marie Oury, Mgr
Pallu ou les missions étrangères en Asie au 17è siècle, Paris,
France-Empire, 1985, trang 81-83, 95-98.
Và
hai sử gia nói khá đầy đủ về đề
tài này là :
-
Josef Metzler,
SĐD, trang 26-34 ;
-
Henri Sy,
SĐD, trang 89-108.
* Những thời
điểm khác nhau
Thật
khó mà nói được Hội Dòng Tông Đồ được
chính thức thành lập vào thời điểm nào. Tuy nhiên,
sau khi tham khảo một số tài liệu, chúng ta có thể
thấy rằng :
a,
Hội Dòng Tông Đồ là điều Đc Lambert đã
ước ao từ khá lâu rồi.*[70]
b,
Hội Dòng Tông Đồ chắc chắn đã là một
đề tài thảo luận sâu rộng tại công đồng
Ajuthia, mà theo chúng ta nghĩ, diễn ra quãng từ tháng ba tới
đầu tháng sáu năm 1664, tức đã kéo dài ba tháng trời.
c,
Sau khi công đồng bế mạc, các thừa sai khởi
sự việc thực hành những kỷ luật của Hội
Dòng như Đc Lambert cho biết trong thư ngài gửi cha
Nicolas Lambert ngày 19.10.1664 : « … Đức Cha thánh thiện [Pallu] và tất cả các
bạn chúng ta đang ở đây, đã đem ra thực
hành… »*[71]
d,
Vào lễ Hiển Linh, ngày 6.1.1665, các ngài tuyên khấn vào Hội
Dòng Tông Đồ :
« …
Chúng tôi khấn hứa theo công thức này vào ngày lễ Chúa
Hiển Linh năm 1665 tại Juthia, thủ đô
vương quốc xiêm La, trong nhà nguyện của chúng tôi
dâng kính thánh Giuse.
- Phanxicô,
Giám Mục Hiệu Tòa Heliopolis, Đại diện Tông Tòa
Đàng Ngoài.
- Phêrô, Giám
Mục Hiệu Tòa Bérythe, Đại diện Tông Tòa Đàng
Trong.
- Phanxicô
Deydier, Thừa Sai Tông Tòa.
- Luy Laneau,
Thừa Sai Tông Tòa. »*[72]
Vào
ngày đó, cha Chevreuil đã sang Đàng Trong. Và bên cạnh bốn
vị có tên trên đây, còn có thừa sai Brindeau, thừa sai
Hainques và ông Chamesson. Nhưng chúng ta không rõ cha Brindeau, cha
Hainques và ông Chamesson có tuyên khấn hay không.
Như
chúng ta vừa thấy, có những thời điểm liên
quan tới Hội Dòng Tông Đồ mà chúng ta không thể
xác định được. Nhưng điều quan trọng
hơn mà chúng ta muốn biết là nội dung của Hội
Dòng Tông Đồ này.
* Hội Dòng Tông
Đồ.
Dự
án của Hội Dòng Tông Đồ gồm 9 chương ngắn
gọn, và 2 công thức khấn.
Theo
quan niệm của các vị đã soạn thảo dự
án, sự trọn lành có hai cấp bậc. Bậc cao nhất
là « đời sống tông đồ » (vita
apostolica), gọi là « đời sống hoàn thiện »
(vita perfecta). Bậc tiếp theo, tức « sự hoàn thiện
thấp hơn » (perfectio inferior), là « sự hoàn thiện
Kitô hữu » (perfectio christiana). Từ đó, chúng ta sẽ
hiểu tại sao Hội Dòng Tông Đồ có hai hạng
thành viên và hai công thức khấn khác nhau.
Chương Một.
Tổng quát về Hội
Dòng.
Mục
đích chính của Hội Dòng Tông Đồ là theo chân và bắt
chước đời sống các Tông Đồ và các Môn
Đệ của Chúa Giêsu. Hội Dòng sẽ đón nhận
hai hạng người.
-
Hạng thứ nhất sống theo gương các Tông Đồ,
giữ phận vụ các Tông Đồ và nhận lãnh các
công tác nặng nhất.
-
Hạng thứ hai sống theo gương các Môn Đệ,
hướng tới sự trọn lành theo chức vụ
đòi hỏi, và dưới sự điều hành của
hạng thứ nhất.
Chương Hai.
Về những ai giữ
đời sống tông đồ.
Họ
sẽ tuân giữ đời sống tông đồ để
tuyên dương sự trọn lành và sống thánh thiện
theo như chức vụ tông đồ đòi hỏi.
Như vậy, với ơn Chúa, họ có thể rao giảng
Đức Giêsu Kitô cho người khác và đem lại sự
cứu rỗi cho các linh hồn bị bỏ rơi ở
khắp mọi nơi.
Họ
sẽ tuyên thệ ba lời khấn trọn lành bên trong là
khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời.
Về
lời khấn thứ nhất, họ từ bỏ tất
cả của cải vật chất cũng như ngay cả
các năng lực và các hoạt động của tâm hồn
họ cho Thiên Chúa.
Về
lời khấn thứ hai, họ không còn một ước
muốn nào đối với chính mình hay một gắn bó
tình cảm đối với bất kỳ thụ tạo
nào.
Về
lời khấn thứ ba, họ sẽ sống vâng theo sự
hướng dẫn của ân sủng sinh động bên
trong con người họ.
Việc
suy niệm và hãm mình phải liên tục nơi họ ; bằng
không, chẳng ai có thể giữ trung thành được
ba lời khấn trên. Bởi thế, mỗi ngày họ phải
dành ra ba giờ để lo việc suy niệm ; họ
không bao giờ được bỏ qua chuyện này, trừ
khi do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần dạy họ
làm việc lo phần rỗi tha nhân hay lo việc nơi khác
cho danh Chúa cả sáng.
Họ
sẽ thực hành mọi sự hãm mình : ngủ trên nền
cứng, hạn chế dùng rượu vang hằng ngày, kiêng
thịt, ăn chay mọi ngày trừ ra ngày lễ Giáng Sinh,
Phục Sinh và Hiện Xuống, cũng như khi đi
đường ; và lúc đi đường thì họ
chỉ cần ăn chay và kiêng thịt theo như luật Hội
Thánh đã định là đủ.
Hơn
nữa, điều quan trọng là họ kiêng sử dụng
thuốc thang (khi bệnh hoạn) ; và theo phương
thuốc đức tin, họ chỉ được cầu
cứu đến hy tế thánh lễ và các phụ bí tích của
Hội Thánh.
Chương Ba.
Về những thừa
sai khác.
Điều
đáng mong ước là các thừa sai đều dấn
thân giữ đời sống tông đồ ; nhưng số
người đi tới bậc trọn lành này sẽ không
nhiều. Điều quan trọng là tất cả phải
theo sự hoàn thiện chung của các Kitô hữu, dù thấp
hơn sự hoàn thiện tông đồ. Và dưới sự
hướng dẫn của các vị khấn giữ đời
sống tông đồ, họ sẽ lo việc truyền
giáo các dân tộc và cứu giúp các linh hồn bị bỏ
rơi.
Họ
sẽ khấn ba lời khấn chung là khó nghèo, khiết tịnh
và vâng lời. Họ sẽ liên tục tìm đạt tới
sự từ bỏ hoàn toàn chính con người mình.
Ngoài
ba lời khấn trên, họ thêm lời khấn vâng lời
Đức Giáo Hoàng mà mau chóng đi đến bất kỳ
nơi nào Đức Giáo Hoàng chỉ định để
lo việc truyền giáo.
Họ
còn thêm một lời khấn nữa là không bao giờ tìm kiếm,
dù trực tiếp hay gián tiếp, bất kỳ thứ ân lộc
nào, địa vị nào, hay chức tước nào, mà không
có ý kiến và sự ưng thuận của bề trên.
Mỗi
ngày, họ phải nguyện ngắm ít nhất là hai giờ.
Họ
phải quen ngủ trên nền cứng, khi ở nơi truyền
giáo không có giường nệm. Họ kiêng rượu vang,
khi thiếu thốn.
Về
việc kiêng thịt, ăn chay và kiêng thuốc thang, họ
được phép theo thói quen các thừa sai tại Âu châu.
Các tu sĩ được nhận vào Hội Dòng này thì giữ
việc hãm mình, kiêng cử và chay tịnh theo như luật
dòng riêng của họ trước đây.
Chương Bốn.
Những điều
kiện để được nhận vào Hội Dòng
này.
Tất
cả ai nhận thấy được ơn Chúa gọi
đi truyền giáo nơi miền xa xôi lo cứu giúp những
linh hồn bị bỏ rơi, đều được
đón nhận vào Hội Dòng này, dù họ là giáo sĩ
được đào tạo trong chủng viện hay giáo
dân đức hạnh ngoài đời, hay tu sĩ đang sống
trong hội dòng của họ.
Họ
phải tới 22 tuổi và chưa quá 37 tuổi.
Hội
Dòng này đón nhận giáo dân nào không bị vướng mắc
chuyện hôn nhân, không cần học hành cao, có lòng đạo
đức không quá tồi tệ, ao ước lo việc
truyền giáo. Hội Dòng không đón nhận ai bị nghi ngờ
có dính dáng vào giáo thuyết Giăng Xê hay những giáo thuyết
mới lạ. Giáo sĩ hay giáo dân đức hạnh nào, dù
không thể ra đi truyền giáo nơi xa xôi vì lý do chính
đáng, vẫn có thể được đón nhận vào
Hội Dòng để ở lại Âu châu lo những sự
liên quan tới việc truyền giáo. Tuổi của họ
có thể vượt quá 37 tuổi, và được miễn
lời khấn vâng lời Đức Giáo Hoàng.
Chương Năm.
Việc đào luyện
các thừa sai.
Thời
gian đào luyện trước khi tuyên khấn là hai
năm. Tuy nhiên, các tu sĩ nào đã khấn trong một hội
dòng được cải tổ thì thời gian này chỉ
là một năm.
Mỗi
ngày phải suy niệm là hai giờ, phải xét mình riêng
trước bữa ăn trưa và bữa ăn chiều,
phải đọc sách thiêng liêng một giờ.
Hai
lần mỗi tuần, phải nghe giảng về đời
sống thiêng liêng.
Mỗi
ngày, phải dành ra ba giờ để học hành, trong
đó một giờ dành cho việc học Kinh Thánh.
Phải
học kỹ nghi thức cử hành các bí tích, tập hát
thánh ca và các sự thuộc về nghi thức của Giáo Hội
để trong tương lai có thể làm cha xứ.
Vì
có ít việc phải thực hành chung, có thể đọc
kinh nhật tụng riêng, cũng như việc suy niệm,
đọc sách và học hành. Tuy nhiên, các việc suy niệm,
đọc sách thiêng liêng, học hành hay các việc thực
tập khác, luôn cần có sự hướng dẫn của
một bề trên hoặc một giám sư. Phải giữ
chừng giờ giấc ngủ nghỉ, ăn uống ;
sau kinh tối thì về phòng riêng.
Mọi
người đều vào nhà nguyện để làm việc
xét mình riêng trước bữa ăn trưa cũng như
trước bữa ăn chiều. Buổi tối, vào trong
nhà nguyện để xét mình và đọc kinh cầu Đức
Bà cùng các kinh chung khác. Ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng,
thì hát lễ và hát kinh chiều.
Chương Sáu.
Việc đào luyện
các thừa sai được gọi vào đời sống
hoàn thiện.
Thời
gian đào luyện hoàn tất, những ai được
nhận vào Hội Dòng thì sẽ tuyên hứa những lời
khấn chung của mọi thừa sai. Giữa họ, nếu
có ai tỏ ra được ơn huệ riêng và được
Chúa gọi vào đời sống hoàn thiện, họ sẽ
tiếp tục năm đào luyện thứ ba. Năm này
chuẩn bị cho họ tuyên khấn đời sống
hoàn thiện.
Vào
năm này, họ sẽ ý thức thực tập nhiều
hơn đời sống hoàn thiện với các việc
kiêng chay, hãm mình và suy niệm. Họ sẽ dành nhiều thời
giờ hơn cho việc đọc sách thiêng liêng và việc
học hành.
Nếu
ai trong họ thấy mình chưa đủ sức chu toàn
các điều kiện và các chức vụ, hoặc chưa
trưởng thành đủ để tuyên khấn đời
sống hoàn thiện, thì họ sẽ ở lại trong tình
trạng chung của các thừa sai. Và họ sẽ
được gửi đi truyền giáo nơi miền
xa, hay ở lại Âu châu lo các sự thuộc việc truyền
giáo.
Nếu
ai đã 40 tuổi hay lớn hơn nữa, hoặc là giáo sĩ
hoặc là giáo dân, từ nhiều năm trời vốn miệt
mài lo danh Chúa cả sáng và thực hành đời sống nội
tâm, nay họ muốn xin vào đời sống hoàn thiện,
thì họ có thể được phép tuyên khấn ngay trong
năm thử luyện. Họ sẽ không buộc phải
giữ những việc kiêng chay hay các việc hãm mình khác.
Cho dù họ không thể đi tới những miền xa
xôi, họ vẫn tham gia vào việc truyền giáo, đem
ơn cứu rỗi đến dân ngoại và rao truyền
đức tin giữa dân ngoại, bằng cầu nguyện
nài van, nước mắt và khấn xin nơi họ. Đó
là điều ngày xưa ông Mô-sê đã làm giữa lúc ông
Giô-suê chiến đấu chống quân A-ma-lếch. Họ
có thể được xem như những thừa sai bên
trong và thầm kín của Hội Dòng.
Chương Bảy.
Điều hành
thiêng liêng.
Đức
Giáo Hoàng và Thánh bộ Truyền bá Đức tin của các hồng
y sẽ là bề trên trực tiếp của Hội Dòng này.
Bề
trên trung gian sẽ luôn luôn là một giám mục. Vị này sẽ
tuyên khấn đời sống hoàn thiện trong Hội
Dòng, và thấm nhuần tinh thần Hội Dòng.
Tòa
Thánh có thể gửi những ủy viên đến tận
các nơi truyền giáo để giám sát Hội Dòng.
Vị
giám mục bề trên Hội Dòng sẽ theo dõi sinh hoạt Hội
Dòng, lưu tâm tới các thành viên, và lo viết thư phúc
trình về Thánh Bộ.
Chương Tám.
Quản lý tài sản
vật chất.
Theo
mục đích của Hội Dòng, Hội Dòng sẽ có tài sản
vật chất riêng, có thể đón nhận mọi sự
trợ giúp và giữ sản nghiệp riêng. Các thừa sai có
thể nhận gia sản thừa kế.
Vị
giám mục bề trên sẽ đặt giáo dân làm giám đốc
quản lý tài sản vật chất. Việc cung ứng vật
chất của Hội Dòng sẽ luôn luôn do giáo dân đảm
nhiệm.
Chương Chín.
Bổn mạng của
Hội Dòng.
Hội
Dòng này sẽ đặt dưới sự bảo trợ
đặc biệt của thánh Giuse ; nhờ ngài, mà
đạt đến tình yêu nồng nàn nhất đối
với Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ.
Thánh
Giuse là quan thầy và là đấng bảo vệ Hội
Dòng. Mỗi ngày phải tôn kính ngài. Phải kêu cầu sự
cứu giúp của ngài trong mọi cơn nguy nan và trong lúc cần
kíp.
* Công thức khấn
(1).
Đây là công thức
khấn dành cho những ai khấn đời sống hoàn
thiện trong Hội Dòng Tông Đồ, (Formula votorum pro iis qui in Congregatione Apostolica vitam
perfectam profitebuntur).
« Nhân
danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
Chúng
tôi là những người tội lỗi đớn mạt,
những kẻ thấp hèn nhất sau hết mọi người,
nhưng nhờ Thiên Chúa an bài mà được sai đi rao
giảng Phúc Âm Chúa Kitô cho lương dân. Chúng tôi ý thức
mình được Thiên Chúa kêu gọi vươn lên tới
sự trọn lành xứng hợp với nhiệm vụ rất
cao quý. Vì vậy với lòng tin tưởng vững vàng vào
ơn phù hộ của Chúa Kitô và nương tựa vào sự
bảo trợ của Người, trước mặt
Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse, Thánh Phêrô, Thánh
Phaolô và các Thánh Tông Đồ khác, cùng toàn thể triều thần
thiên quốc, chúng tôi tuyên hứa và khấn với Thiên Chúa
tốt lành cao cả : sẽ giữ đức Nghèo Khó,
đức Khiết Tịnh và đức Vâng Phục ;
nhất là thực hành những điều ba lời khấn
ấy diễn tả : giữ linh hồn và các năng
khiếu tâm linh hoàn toàn thanh thoát ; tuyệt đối
khước từ sự tự do sử dụng các
năng khiếu tâm linh ; từ bỏ trọn vẹn mọi
khoái cảm cố ý tìm kiếm nơi bất cứ tạo
vật nào, ngay cả khoái cảm có thể nhận
được do những ân huệ trên trời. Sau hết,
theo mức độ ơn trên ban cho và trong bất cứ
hoàn cảnh nào, chúng tôi hoàn toàn lụy phục sự soi sáng
và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúng
tôi cũng hứa vâng phục đặc biệt Đức
Giáo Hoàng, Giám Mục Rôma, mà chúng tôi nhìn nhận là vị
Đại Diện Duy Nhất của Chúa Kitô trên trần
gian, đến nỗi chúng tôi sẽ có mặt bất cứ
nơi đâu, bằng bất cứ cách nào, theo như ý Ngài
muốn sai chúng tôi đi, đem các linh hồn về cho
Thiên Chúa, truyền bá đức tin và phục vụ Giáo Hội.
Ngoài
ra, chúng tôi xin hứa sẽ không bao giờ tìm kiếm trực
tiếp hay gián tiếp bất cứ một thứ ân lộc,
địa vị hoặc chức tước nào, ngay cả
khi người ta đề nghị các điều đó,
chúng tôi cũng không nhận trước khi thỉnh ý Bề
Trên và được Người cho phép.
Chúng
tôi tuyên hứa tất cả các điều trên đây theo
đúng các giải thích đầy đủ hơn trong ‘‘Lý
Tưởng Hội Tông Đồ’’ và sẽ tuân giữ chu
đáo mọi quy luật của Hội này. »*[73]
* Công thức khấn
(2).
Đây là công thức
khấn dành cho các thừa sai nói chung, (Altera formula pro singulis missionariis).
« Tôi
(T…) với lòng tin tưởng vững vàng vào sự trợ
giúp và phù hộ của Chúa Kitô, trước mặt Đức
Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse, các thánh Tông Đồ
Phêrô và Phaolô và các Thánh Tông Đồ khác cùng toàn thể triều
thần thiên quốc, tôi tuyên hứa và khấn với Thiên
Chúa tốt lành cao cả : sẽ giữ đức Nghèo
Khó, đức Khiết Tịnh và đức Vâng Phục
mãi mãi trong Hội Tông Đồ và hứa vâng lời đặc
biệt Đức Giáo Hoàng, đến nỗi tôi sẽ có
mặt bất cứ nơi đâu Ngài muốn sai tôi đi,
đem các linh hồn về cho Thiên Chúa và truyền bá đức
tin.
Ngoài
ra, tôi hứa sẽ không bao giờ tìm kiếm trực tiếp
hay gián tiếp bất cứ một thứ ân lộc, địa
vị hoặc chức tước nào, ngay cả khi người
ta đề nghị các điều đó, tôi cũng không nhận
trước khi thỉnh ý Bề Trên và được Người
cho phép.
Tôi
tuyên hứa tất cả các điều trên đây theo
đúng cách giải thích đầy đủ hơn trong
sách Luật dòng, đồng thời sẽ tuân giữ nội
quy liên quan tới các thừa sai của Hội này. »*[74]
* Ý kiến thần
học.
Dự
án Hội Dòng Tông Đồ gồm 9 chương và 2 công thức
khấn, như chúng ta vừa xem qua, được chính
Đc Pallu trình lên Thánh bộ Truyền bá Đức tin.
Đc
Pallu đã phải hy sinh nhiều trong chuyện này. Hội
Dòng Tông Đồ là việc đòi hỏi ngài nhiều tế
nhị, khéo léo, kiên nhẫn, can đảm và cao thượng.
Ở đây, chúng tôi không có ý trình bày chi tiết công việc
của Đc Pallu, cũng không có ý bàn rộng những ý kiến
phê bình của các vị giám đốc Hội Thừa Sai
Paris.*[75]
Còn
tại Rôma, Thánh bộ Truyền bá Đức tin đã tham
khảo ý kiến các thần học gia như các cha
Tartaglia, Ricci, Bona, Domenico, v.v.
Sự
chú ý của các vị được hỏi ý kiến thì,
nói chung, xoay quanh vấn đề « lời khấn nội
tâm » (Tria perfectorum vota,
paupertatis scilicet, castitatis, et obedientiae interioris emittent) :
« giữ
linh hồn và các năng khiếu tâm linh hoàn toàn thanh
thoát ; tuyệt đối khước từ sự tự
do sử dụng các năng khiếu tâm linh ; từ bỏ
trọn vẹn mọi khoái cảm cố ý tìm kiếm
nơi bất cứ tạo vật nào, ngay cả khoái cảm
có thể nhận được do những ân huệ trên
trời. Sau hết, theo mức độ ơn trên ban cho và
trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng tôi hoàn toàn lụy phục
sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. »
Các
lời khấn của Hội Dòng Tông Đồ « không
có gì đáng chê trách cả, cũng không có gì có thể bị
khiển trách về mặt thần học »*[76].
Đó là ý kiến của thần học gia Jean Bona, và cũng
là ý kiến tiêu biểu của các thần học gia khác. Và
mặc dù ca ngợi sự thánh thiện hàm chứa trong các
lời khấn, thần học gia này lại nghĩ rằng
không nên áp dụng cho mọi người. « Mặt khác,
Giáo Hội không thể chuẩn nhận những lời khấn
hoàn toàn bên trong nội tâm mà sự lỗi phạm sẽ
thoát khỏi mọi hình thức chế tài. Nếu người
ta tuyên hứa những lời khấn như thế, thì lời
khấn sẽ thành sự ; nhưng điều đó
không thích hợp, vì chúng vượt quá sức thường
con người. Những lời khấn chỉ được
chấp nhận trong trường hợp tuyên hứa dưới
sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, điều
khó mà chứng minh được. »*[77]
Một
điểm khác cũng được bàn thảo tới
cách đặt biệt là « họ kiêng sử dụng thuốc
thang ; và theo phương thuốc đức tin, họ
chỉ được cầu cứu đến hy tế
thánh lễ và các phụ bí tích của Hội Thánh ».
Điều này thật khó áp dụng, nếu không dám nói là
không thể thực hiện được, nhất là khi
vào lãnh vực hoạt động truyền giáo.*[78]
* Tòa Thánh từ chối.
Sau
khi được các thần học gia đóng góp ý kiến,
Ủy ban Đặc biệt của Thánh bộ Truyền bá
Đức tin*[79]
nhóm họp lại ngày 13.8.1669. Ủy ban này đã bác bỏ
việc xin thành lập Hội Dòng Tông Đồ bằng một
sắc lệnh như sau :
« Giám
mục Bêrytê, Đại diện Tông tòa xứ Trung Hoa,
Giám
mục Hêliopolis, Đại diện Tông tòa xứ Đàng
Ngoài,
và
các vị thừa sai khác tại Trung Hoa và vùng Ấn Độ
Dương,
đã
đệ trình lên xin Thánh Bộ xét xử những lời
tuyên khấn của họ ;
sau
khi lắng nghe các thần học gia được tham khảo
cách đặc biệt, Thánh Bộ đã ca ngợi lòng nhiệt
thành và ước muốn một sự hoàn thiện cao siêu
hơn nơi họ.
Còn
về chính những lời khấn, (cho dù có thể suy xét
riêng từng lời khấn và trong các quan hệ với từng
thành phần cá biệt), xét chung những lời khấn và
đối với những ai được chỉ định
lo việc truyền giáo, Thánh Bộ đã phân xử rằng,
vì những lý do chính đáng, những lời khấn trên phải
bị phản bác và phải bị tuyên bố là vô hiệu ;
và thực tế là Thánh Bộ không tán thành và tuyên bố vô
hiệu những lời khấn trên. Và Thánh Bộ truyền
rằng sắc lệnh này phải được tuân giữ
bởi những ai đã tuyên thệ những lời khấn
đó. »*[80]
Và
vị thư ký của Thánh Bộ đã đệ trình quyết
định trên lên Đức Giáo Hoàng. Và ngài đã tán thành
quyết định đó vào buổi triều yết ngày
6.9.1669.
Sử
gia Launay còn cho chúng ta biết thêm ý kiến của Thánh Bộ
khi từ chối chuẩn nhận Hội Dòng Tông Đồ
rằng :
« Những lời
khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục bề trong,
như đã được diễn tả, chỉ thực
hiện được trong những giả thuyết thật
họa hiếm, không thể nào dùng làm nền tảng cho một
hiệp hội tu trì bao giờ. Còn các lời khấn khác về
sự tuân thủ bề ngoài, phải xem đó như những
quyết tâm tốt lành, và lại nữa, những quyết
tâm như vậy ít thích hợp với các thừa sai, nhất
là nếu họ thực hiện chung với nhau. »*[81]
* Thông báo của
Thánh Bộ.
Đối
với Đc Pallu đang hiện diện tại Rôma, để
tỏ ra tế nhị và kính trọng ngài, người ta
đã trực tiếp nói cho ngài hay quyết định của
Thánh Bộ. Người ta đã không muốn ra một sắc
lệnh công khai, sợ bị cảm nhận như một
pháp lệnh tòa án.
Còn
đối với Đc Lambert, chính Đức Hồng Y bộ
trưởng Barberini đã thông báo cho ngài qua lá thư đề
ngày 24.8.1669 như sau :
« Trọng
kính Đức Cha,
Giữa
những vấn đề mà Đức Giám Mục Hêliopolis
đã đệ trình lên Thánh Bộ này, có bản trình bày
đầy đủ và rõ ràng về những lời khấn
đã tuyên thệ bởi chính Đức Cha và một vài vị
trong số thừa sai của các Đức Cha. Đó không
phải là điều nhỏ bé nhất. Những lời khấn
trên, Đức Giám Mục Hêliopolis đã hết lòng khẩn
khoản xin Thánh Bộ ưng chuẩn.
Sau
khi bàn luận kỹ càng về một đề tài rất
đỗi quan trọng như vậy, và sau khi đã lắng
nghe ý kiến của các thần học gia rất thông thái
đang phục vụ Tòa Thánh, các đấng [thuộc Thánh
bộ Truyền bá Đức tin] đã quyết định
soạn thảo ra bản phán quyết. Bản phán quyết
đó đã được thông báo cho Đức Giám Mục
Hêliopolis với lệnh phải thông tin cho Đức Cha
được hay. Vậy khi nào Đức Cha được
biết phán quyết này, thì xin Đức Cha hãy tuân thủ
hoàn toàn theo đó.
Vì
biết lòng nhiệt thành, đức cẩn thận, sự
tôn kính đối với Tòa Thánh nơi tất cả quý
chư huynh, các đấng [thuộc Thánh bộ Truyền bá
Đức tin] hy vọng rằng Đức Cha sẽ không
rời xa đường lối sống đó và sự
vâng phục của Đức Cha sẽ mau lẹ và vui vẻ.
Tôi
cầu xin Chúa ban cho Đức Cha được tràn đầy
ân sủng của Ngài.
Rôma,
ngày 24.8.1669. »*[82]
* Phản ứng của
hai Đức Cha.
Chúng
ta đã đọc đoạn thư đầy phấn khởi
ngày 19.10.1664 của Đc Lambert gửi em của ngài về
Hội Dòng Tông Đồ :
« chính
đó là điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi nhóm người
nhỏ bé của các anh, nhưng Ngài đã trì hoãn ban ánh sáng
soi dẫn. Cho tới hiện tại, dự án đối với
các anh xem ra tuyệt đẹp và tuyệt hợp với
ơn gọi của chúng ta đến nỗi Đức Cha
thánh thiện [Pallu] và tất cả các bạn chúng ta
đang ở đây, đã đem ra thực hành, và anh thì thấy
như mình bị cưỡng bức phải bắt chước
theo họ. »
Thế
nhưng, bây giờ Hội Dòng Tông Đồ chính thức bị
bãi bỏ. Phản ứng của các thừa sai Pháp ra
sao ? Ít nữa, phản ứng của hai vị Đại
diện Tông tòa ra sao ?
Đc Pallu, ngay trong ngày
Đức Giáo Hoàng phê chuẩn quyết định từ
chối nói trên của Thánh bộ Truyền bá Đức
tin, đã bỏ lời khấn hứa tại Ajuthia năm
1665, ăn thịt và dùng rượu. Sau này, ngài viết cho
thừa sai Deydier rằng :
« Tôi
thà chết hơn là xa lánh một dấu phẩy trong các mẫu
mực đã quy định cho chúng ta, khi chỉ là tỏ
ra sự kính trọng và vâng phục mà tôi phải giữ và
muốn giữ suốt đời đối với Toà
Thánh. »*[83]
Phần
Đc Lambert, mãi đến mùa hè năm 1671, lúc sắp xuống
tàu đi thăm xứ Đàng Trong lần thứ nhất,
ngài mới được tin rõ ràng là Hội Dòng Tông Đồ
đã bị Tòa Thánh giải thể :
« Lúc
tôi sắp trẩy sang Đàng Trong thì cha Langlois, cha Vachet và
ông Chamesson đến được đây […] Có nhiều
thư từ quan trọng của Rôma mà tôi đã nhận
được tất cả với tâm tình vui mừng, vâng
phục và kính trọng. » (Thư gửi các giám đốc
Chủng Viện Paris, ngày 15.7.1671).*[84]
Ngài
cũng viết cho cha Lesley như vậy :
« …
các sắc chỉ đã ban ra về những lời tuyên khấn
của chúng tôi, tôi đón nhận với niềm vui, vâng phục
và tôn kính. »*[85]
Và
ngài tâm sự nhiều hơn với cha linh hướng
riêng của ngài :
« Hôm
đầu tháng này, ông Chamesson đã trao cho con lá thư của
cha đề ngày 8.2.1669 cùng với thư từ của Rôma
liên quan tới dự án một hội dòng mà Tòa Thánh đã
bác bỏ. Con tạ ơn Chúa. Như thế là qua cách thức
đó, con được tự do về thể lý mà phụng
sự Chúa trong một đời sống chung, nhưng không
phải về mặt tinh thần, vì con thú nhận với
cha rằng « tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng ta » [2
Cor 5, 14] và ngọn lửa đó do Ngài đã đem đến
đặt vào trong thế gian, vào trong con tim của những
kẻ cố gắng tôn thờ Ngài trong tinh thần và trong
chân lý. Ngọn lửa ấy đang thiêu rụi con người
con. […] Con để cho mọi người phê phán đường
đi lối bước và cung cách hành xử của con mà
không tìm tự biện hộ cho chính mình. » (Thư gửi
cha Simon Hallé, ngày 15.7.1671).*[86]
* Chứng từ của
cha Vachet tại Ajuthia.
[Khi
từ Pháp ra đi vào ngày 13 tháng 2 năm 1669, cha Vachet lúc
đó mới 28 tuổi, và tới Xiêm năm sau đó. Sau
đây là những gì ngài tự mình thuật lại về lần
đầu tiên gặp Đức cha Béryte.]
Lần
đầu tiên tôi được vinh dự đến bái
chào ngài là vào lúc 9 giờ tối. Sau khi đọc xong lá
thư Đức cha Héliopolis viết từ Roma, ngài đích
thân dẫn tôi vào phòng nghỉ, và khi tạm biệt tôi, ngài
còn nói ngài sẽ rất vui nếu sáng sau tôi giúp lễ cho
ngài. Tôi đã thực hiện điều ngài nói, và ngài lại
dự lễ tôi cử hành.
Ngài
dẫn tôi trở lại phòng ngài. Lúc này, người ta
đã dọn sẵn 2 bộ chén bát. Tôi chưa hết ngạc
nhiên với việc này, bởi vì người ta còn dọn
lên một đĩa thịt gà trộn, và một chai rượu
nho nữa ; đến nước này thì tôi như mất
hồn và không còn biết nói năng gì hơn. Vị Giám mục
nhận thấy điều đó, mỉm cười nói với
tôi :
« Đúng là cha không ngờ
trước được một bữa ăn thịnh
soạn như thế này phải không ? »
Tôi
chân tình thú thật với ngài là những gì tôi nhìn thấy
đã phá tan ý nghĩ người ta tạo ra nơi tôi về
ngài, bởi vì tôi đã tin chắc rằng ở đây không
ăn thịt và uống rượu, cũng giống
như người ta không bao giờ ăn điểm tâm ở
Chủng viện này. Thế mà ở đây mọi sự
đều ngược lại trước mắt tôi. Ngài
trả lời :
« Người ta không
đánh lừa cha đâu. Bởi vì đã 3 năm rồi,
chúng tôi ở đây sống khắc khổ. Chúng tôi tin rằng
cách sống đó thích hợp với các nhà truyền giáo, và
chúng tôi đã tự nguyện vui thích chọn cách sống
đó. Nhưng từ khi Đức Giáo hoàng, các Hồng y của
Thánh bộ và các bạn chúng ta ở Paris không đồng ý
chuẩn y, như Đức cha Héliopolis vừa viết
thư cho tôi đây, tôi không hề do dự chút nào để
tuân theo cảm nghĩ của các đấng ấy. Cũng
như cha thấy đấy, tôi là người đầu
tiên tự kết án mình. Tôi đã ra lệnh là chúng ta sẽ
dùng thịt trong bữa tối. Các vị thừa sai của
chúng ta có thể sẽ gặp đôi chút khó khăn,
nhưng tôi hy vọng là tôi sẽ làm gương cho các ngài
noi theo. »*[87]
* Vài nhận định
sau này.
Dự
án Hội Dòng Tông Đồ xuất phát từ công đồng
Ajuthia đã bị từ chối, hay nói như Đc Pallu
trong thư gửi thừa sai Deydier : « đã bị
loại bỏ cách tuyệt đối bởi Thánh bộ
Truyền bá Đức tin »*[88].
Suy
nghĩ về sự từ chối ấy, sử gia Adrien
Launay thuộc Hội Thừa Sai Paris đã nhận định
rằng : « Chính qua quyết định đó của
Đức Giáo Hoàng và Thánh Bộ mà thêm một lần nữa,
Thánh Bộ xác định quyền bính của mình trên các việc
truyền giáo hải ngoại, và Hội Thừa Sai Paris cần
phải giữ vị trí như thuở ban đầu :
là một hiệp hội các giáo sĩ triều, họp lại
với nhau, và hiến thân cho việc truyền giáo bằng
một hành động duy nhất và liên tục phát xuất
từ một ý chí tự do. »*[89]
Sau
này, sử gia Jean Guennou cũng thuộc chính Hội Thừa
Sai Paris lại thêm : « Những quyết định
của Rôma đã làm nổi bật lên tính chất thuần
túy giáo sĩ triều của Hội Thừa Sai Hải Ngoại,
nhưng đồng thời còn tăng cường thêm quyền
bính cho các giám mục được Tòa Thánh sai phái sang Á
đông nữa. »*[90]
&
Tổng kết
Ngày
17.9.1669, Đc Pallu rời Rôma để trở về Pháp.
Và ngài đặt chân tới Paris vào thứ bảy ngày 30.11
sau đó. Từ Paris, ngài sẽ viết cho Đc Lambert một
lá thư trong đó có đoạn :
« Chúng
ta hãy đặt rõ ràng vào tâm trí tất cả các thừa sai
của chúng ta rằng chúng ta không được gửi
đi lo việc hoán cải một vài cá nhân một cách giản
dị như những thừa sai khác. Sứ vụ của
chúng ta là đào tạo những giáo sĩ về tất cả
các phận vụ Giáo Hội, là truyền chức các linh mục,
là xây dựng các Giáo Hội và đặt các Giáo Hội
đó vào thế tự lo liệu lấy cho chính mình, không cần
phải cầu cứu liên tục tới Âu châu để
xin những sự trợ giúp cần thiết. Bởi
đó, công việc đầu tiên và căn bản mà chúng ta
phải chuyên cần lo liệu là hướng về các thầy
giảng để huấn luyện họ, và trong các chủng
viện của chúng ta để có được các thầy
giáo sĩ và các linh mục. […]
Tại
Paris, ngày 6.12.1669 ».*[91]
Những
lời như trên, chúng ta đã không hề gặp thấy
trong các bản văn của công đồng Ajuthia như Huấn
Thị Ajuthia hay Hội Dòng Tông Đồ. Chúng ta có cảm
tưởng như tại Rôma, Đc Pallu đã được
Thánh bộ Truyền bá Đức tin nhắc nhở lại
nhiệm vụ chính yếu của các ngài, nhiệm vụ
đã được ghi rõ trong Huấn Thị năm 1659 của
Thánh Bộ :
« Đây, lý do chính thúc đẩy Thánh Bộ
đã cử chư huynh đến các xứ ấy với
chức vụ giám mục, là để chư huynh, bằng
mọi phương thức có thể, lo đảm trách
giáo dục thanh niên, giúp họ đủ khả năng lãnh
nhận chức vụ linh mục. Chư huynh sẽ tấn
phong cho họ và cử họ đi khắp các miền bao
la ấy, mỗi người công tác trong quốc gia của
mình ; ở đó họ
sẽ hết lòng phụng sự đạo Chúa nhờ
chư huynh ân cần chăm sóc. Vậy chư huynh hãy luôn
đặt trước mắt mục đích này là tuỳ
sức có thể chư huynh hãy làm sao đưa dẫn
được nhiều người và là những người
có nhiều khả năng đạt đến chức
thánh, đào luyện họ và truyền chức cho mỗi
người lúc họ đã sẵn sàng. » (Phần
III, 1).*[92]
Chúng
ta đã hiểu mối bận tâm của hai Đc Pallu và
Lambert, cũng như mục tiêu đầu tiên của công
đồng Ajuthia năm 1664, là vấn đề đạo
đức của các thừa sai. Hai vị Đại diện
Tông tòa và các thừa sai Pháp đã gặp phải « sự vô kỷ luật của
các giáo sĩ triều và các hội dòng tu sĩ »*[93] tại những nơi truyền
giáo. Do đó, họ đã muốn họp công đồng hầu
« sớm tìm phương thế
nào để loại trừ hoàn toàn sự buông lỏng và gầy
dựng những việc thực hành thánh thiện. »*[94]
Trong
tập Huấn Thị Ajuthia, được xem như kết
quả quan trọng nhất của công đồng, và trong
toàn chương trình Hội Dòng Tông Đồ, người
ta thấy vấn đề tu đức của các thừa
sai là vấn đề tuyệt đối ưu tiên. Tiếp
đến, quan niệm về thừa sai là một quan niệm
rất phổ thông và cổ điển : thừa sai là
người lo rao giảng, lo cứu các linh hồn, lo mở
mang Giáo Hội, v.v. Cái sứ vụ rất đặc biệt
do Thánh Bộ trao phó là phải lo thiết lập hàng giáo sĩ
địa phương, thì gần như bị bỏ quên,
hay ít nữa, không được công đồng Ajuthia trân
trọng cách xứng hợp. Toàn tập Huấn Thị
Ajuthia chỉ dành vài ba trang khiêm tốn để hướng
dẫn các thừa sai về vấn đề các thầy giảng
tiến tới « các chức thánh »*[95].
Tuy
nhiên, nếu các văn bản chính thức phát xuất từ
công đồng Ajuthia năm 1664 đã không trân trọng
đủ sứ mệnh do Thánh Bộ trao phó, thì một
trong những quyết định của công đồng lại
sẽ đem đến nhiều thuận lợi cho sứ
mệnh nói trên. Quyết định này tương đối
là dễ dàng, vì gần như là điều đương
nhiên đối với các thừa sai Pháp lúc ấy. Có lẽ,
khác với việc soạn thảo Huấn Thị Ajuthia
hay vấn đề Hội Dòng Tông Đồ, họ đã
không phải hội họp và bàn thảo lâu giờ khi lấy
quyết định chung. Đó là quyết định xin
Tòa Thánh quyền tài phán trên đất Xiêm La, và sau nữa là
xây dựng trụ sở truyền giáo người Pháp tại
đây. Chính tại trụ sở này, mà chúng ta sẽ quen gọi
là « Chủng viện Thánh Giuse », nhiều ứng sinh
chức linh mục vùng Đông Nam Á đã được tiếp
đón và huấn luyện.
Trong
số các linh mục Việt Nam thế hệ đầu
tiên, các vị đã qua đó là :
- cha Giuse Trang (chịu
chức ngày 31.3.1668, tại Xiêm La).
- các cha Bentô Hiền và
Gioan Huệ (chịu chức quãng tháng 5.1668, tại Xiêm La).
- cha Luca Bền (quãng
đầu năm 1669, tại Xiêm La).
- cha Manuel Bổn (quãng
đầu năm 1673, tại Xiêm La).
-
các cha Philipphê Trà và Đômingô Hảo (ngày 18.7.1677, tại Xiêm
La).
Ngoài
ra, chúng ta còn phải kể tới Đức cha Phanxicô
Pérez. Ngài được đào tạo tại Chủng viện
Thánh Giuse, và chịu chức linh mục đồng thời
với cha Giuse Trang, ngày 31.3.1668. Sau này ngài trở thành giám mục
hiệu tòa Bugie, làm Đại diện Tông tòa giáo phận
Đàng Trong (1691-1728).
&
Để
kết thúc, chúng ta hãy nhớ lại rằng Tòa Thánh đã
sai các giám mục người Pháp đi lập hàng giáo sĩ
Việt Nam. Các ngài cùng với các thừa sai tháp tùng đã họp
công đồng tại Ajuthia năm 1664. Tuy nhiên, công đồng
này đã không trực tiếp khai triển rộng rãi và cụ
thể Huấn Thị năm 1659 mà Thánh bộ Truyền bá
Đức tin đã ban, đặc biệt về vấn
đề thiết lập hàng giáo sĩ địa
phương. Ngoài ra, không ai có thể phủ nhận sự
đóng góp rất lớn của công đồng này vào sự
thành hình và phát triển của Hội Thừa Sai Hải Ngoại
Paris. Điển hình là sự thành công đáng ca ngợi của
tập Huấn Thị Ajuthia qua các thế hệ thừa
sai khác nhau. Và những quyết định của công đồng
này cũng đã góp phần tích cực vào việc xây dựng
các Giáo Hội địa phương tại vùng Đông Nam
Á, đối diện với chế độ bảo trợ
truyền giáo Bồ Đào Nha, đặc biệt là Giáo Hội
Việt Nam tại hai miền Đàng Ngoài và Đàng Trong ngày
đó.
Tại Pháp, ngày 30.3.2009
Đào Quang Toản
[1] Để trả lời những câu hỏi
trên, chúng tôi có được một số tài liệu
sau :
-
Ký sự của Đc Lambert từ ngày 22.10.1663 đến
ngày 22.5.1665, (AMEP, vol. 121, p. 657-686 ; vol. 876, p. 69-95).
(Lưu ý : AMEP = Archives des Missions Étrangères de Paris).
-
Thừ từ của Đc Lambert trong năm 1664, (26 lá
thư tiếng Pháp, và 4 tiếng la tinh).
-
Đc Pallu : tập Đoản Ký Truyền Giáo và Hành
Trình, tựa là : Relation abrégée des missions et des voyages
des evesques françois, envoyez aux royaumes de
-
Ký sự của Đc Pallu : « Ce qui s’est passé de plus
remarquable dans tous les lieux de nos missions depuis mon arrivée à Siam
jusques au temps de mon retour en Europe » (s.d.), (AMEP, vol. 856, p.
437-497).
-
Đc Pallu : các thư ngày 17.2, ngày 14.10 và ngày 20.10.1664,
(AMEP, vol. 101, p. 211-213, p. 215-217, p. 219-221).
-
Đc Pallu : ký sự 1658-1665 bằng tiếng la tinh
(AMEP, vol. 101, p. 277-292).
[2] Bourges (Jacques de), Relation du voyage de
Monseigneur l’évêque de Bérythe, Vicaire apostolique du Royaume de
[3] AMEP, vol. 121, p. 656.
[4]
Adrien Launay lại không nhắc chi tới thừa sai Chevreuil
trong cuốn Histoire de
[5] AMEP, vol. 136, p. 360-362.
[6] AMEP, vol. 876, p. 72.
[7] - Guennou
(Jean), Missions Étrangères de Paris, Paris, Fayard, 1986, trang 122.
- Forest (Alain), Les missionnaires français au Tonkin et au Siam, XVIIè - XVIIIè siècles, (livre 1), Paris, l’Harmattan, 1998, trang 177.
- Fauconnet-Buzelin (Françoise), Le père inconnu de la mission moderne :
Pierre Lambert de
[8] - Launay (Adrien), Histoire de
- Baudiment
(Louis), François Pallu, principal
fondateur de
- Van Der Cruysse (Dirk), Louis XIV
et le Siam, Paris, Fayard, 1991, trang 181.
- Van Grasdorff
(Gilles),
La belle histoire des Missions étrangères :
1658-2008, Paris, Perrin, 2007, trang 94.
[9] « Par la précaution que j’ai prise à l’arrivée de Mgr d’Héliopolis et de quatre de nos chers missionnaires et de Mr Chamesson par laquelle je les ai priés que nous ne parlassions d’aucune nouvelle qu’après trois jours. » (AMEP, vol. 858, p. 71).
[10] « Ils convinrent dès leur abord qu’on ne parlerait d’aucune nouvelle qu’après 3 jours, et qu’on s’occuperait seulement à rendre grâce à la divine bonté, de la miséricorde qu’elle leur faisait d’avoir permis une entrevue si surprenante. » (AMEP, vol. 876, p. 72).
[11] AMEP, vol. 101, p. 211.
[12] AMEP, vol. 858, p. 73.
[13] AMEP, vol. 856, p. 442.
[14] Louis Baudiment, SĐD, trang 195.
[15] AMEP, vol. 856, p. 446.
[16] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 25. (Tất cả những bản văn trích dẫn từ cuốn sách này, chúng tôi sẽ dựa theo bản dịch tiếng Việt của Sr Elisabeth Thiết, Mến Thánh Giá Chợ Quán).
[17] Xem Đc Pallu, thư ngày 7.2.1664 : AMEP, vol. 101, trang 212.
[18] AMEP, vol. 858, p. 67.
[19] AMEP, vol. 858, p. 73.
[20] AMEP, vol. 121, p. 565.
[21] AMEP, vol. 121, p. 567.
[22] AMEP, vol. 856, p. 443.
[23] Tức từ tháng 2 tới tháng 6 năm 1664, là tháng họ sẽ xuống tàu rời Xiêm La, theo dự tính lúc đó.
[24] AMEP, vol. 858, p. 72.
[25] AMEP, vol. 121, p. 661.
[26] Xem Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 18.
[27] Đây là nguyên văn đoạn ký sự quan trọng, nhưng ít người biết đến : « Après donc avoir appris la belle vie et l’heureuse mort de Mgr de Métellopolis et Mrs Meusnier, Périgaud, Chéreau, Brunel et Danville, missionnaires et de celle de Mr Fortis de Claps, laïque, et leur avoir rendu les derniers devoirs, l’on fit l’ouverture de cette grande action synodale le dernier février 1664. Cette occupation si importante empêcha qu’on ne pût vaquer à la conversion des âmes comme l’on eut pu faire. » (AMEP, vol. 121, p. 661 ; hay, vol. 876, p. 73).
[28] Françoise Fauconnet-Buzelin, SĐD, trang 321 : « Ce synode s’ouvre le ‘dernier de février’ et durera une bonne partie du mois de mars. »
[29] Josef Metzler, Die Synoden in Indochina : 1625-1934, Paderborn, F. Schöningh, 1984, trang 15 : « Das genaue Datum dieser ersten Synode Indochinas steht nicht fest. Im Titel der Instruktionen ist lediglich das Jahr 1665 angegeben. Da Pallu bereits am 19. Januar 1665 Ajuthia verließ, um in Rom die Approbation der Synodalbeschlüsse zu erbitten, ist dies der äußerste Terminus ad quem der Synode. Wegen der umfangreichen Synodalarbeiten muß man wohl den Beginn der Synode schon auf Ende 1664 ansetzen. » (Ngày tháng chính xác đoạn thứ nhất của Công Đồng Đông Dương [tức công đồng Ajuthia] thì không xác định rõ. Đề tài của Huấn Thị thì chỉ có cho biết rõ là năm 1665. Bởi vì ngày 19.1.1665, Đức Cha Pallu đã rời Ajuthia để về Rôma thỉnh xin sự chuẩn nhận các quyết định của Công Đồng. Sự chuẩn nhận này là công việc rất quan trọng của Công Đồng. Vì những việc làm của Cồng Đồng rất bao la, nên để bắt đầu cho cuộc họp Công Đồng, người ta phải tập trung làm việc vào cuối năm 1664.), (bản dịch tiếng Việt của Sr Agatha Xanh, Mến Thánh Giá Thủ Thiêm).
[30] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 44-46.
[31] Josef Metzler, SĐD, trang 16.
[32] AMEP, vol. 121, p. 663.
[33] AMEP, vol. 121, p. 668.
[34] Jean Guennou, SĐD, trang 127.
[35] Thư của Đc Lambert gửi cha Bourges : AMEP, vol. 121, p. 575.
[36] Chúng ta chỉ có được bản sao lá thư này của Đc Lambert gửi cha Bourges, (AMEP, vol. 121, p. 574), và bản sao lại không ghi chú ngày tháng của lá thư. Mặt khác, Françoise Fauconnet-Buzelin nhận xét rằng năm 1664, Đc Lambert gặp được bốn cơ hội để gửi thư về Âu châu : giữa tháng 2, giữa tháng 5, giữa tháng 10 và tháng 11. (SĐD, trang 355, ghi chú 2).
[37] AMEP, vol. 121, p. 576.
[38] AMEP, vol. 856, p. 446.
[39] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 46-48.
[40] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 26-27.
[41] Henri Chappoulie
đã xuất bản tài liệu này tại Paris, (không đề
nhà xuất bản) : Une
controverse entre missionnaires à Siam au XVIIè siècle. Le Religiosus
Negotiator du jésuite français J. Tissanier, suivi de quelques documents
concernant le commerce des clercs, Paris, 1943, XXI-77 trang.
[42] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 31-32.
[43] AMEP, vol. 121, p. 674-675.
[44] AMEP, vol. 856, p. 471.
[45] AMEP, vol. 121, p. 577.
[46] AMEP, vol. 121, p. 585.
[47] Vào thời điểm này, tất cả họ là : Đc Lambert, Đc Pallu, các cha Deydier, Brindeau, Hainques và Laneau, và giáo dân Chamesson. Còn cha Chevreuil thì đã đi Đàng Trong rồi.
[48] AMEP, vol. 121, p. 582.
[49] AMEP, vol. 121, p. 674.
[50] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 34-35.
[51] Jean Guennou, SĐD, trang 129.
[52] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 48-49.
[53] Xem AMEP, vol. 121, trang 680.
[54] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 51. Còn theo ký sự của Đc Lambert thì là ngày 20.1.1665 : AMEP, vol. 121, p. 683.
[55] Jean Guennou, SĐD, trang 129.
[56] Xem Louis Baudiment, SĐD, trang 248.
[57] Sắc lệnh Cum civitas Iuthia, ngày 4.6.1669.
[58] Nhóm
Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá, Tóm Lược Tiểu Sử Đức Cha Phêrô-Maria
Lambert de
[59] Jean Guennou, SĐD, trang 126.
[60] Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá, SĐD, trang 28.
[61] Trong cuốn Khơi Nguồn Tiến Bước, Lưu Hành Nội Bộ, năm 2004, trang 29-240. (Các bản văn của Huấn Thị Ajuthia được trích dẫn trong bài viết này là trực tiếp theo bản dịch của Khơi Nguồn Tiến Bước, hay nương theo bản dịch đó).
[62] Jean Guennou, SĐD, trang 126.
[63]
Adrien Launay, Histoire
générale de
[64] St
Thomas d’Aquin, Somme Théologique, IIa IIae, q.2, a.7, ad 3 :
« Si certains ont été sauvés sans avoir reçu la révélation, ils ne l’ont
pas été sans la foi au Médiateur. Car, même s’ils n’eurent pas une foi
explicite, ils eurent pourtant une foi implicite en
[65] Công đồng Trentô, Sắc Lệnh về
sự Công chính hóa, ngày 13.1.1547. - Giáo huấn trên, ngày nay chúng
ta vẫn lập lại khi dâng thánh lễ với Kinh Tạ
Ơn số IV : « … khi con người đã mất
tình nghĩa với Cha vì bất phục tùng, Cha đã không bỏ
mặc con người dưới quyền lực sự
chết. Thật vậy, Cha đã thương cứu giúp mọi
người, để những ai tìm Cha đều gặp
Cha… »
[66] Thánh Augustinô, Retractationes I, 13, 3, (theo bản dịch tiếng Pháp của Henry de Riancey).
[67] Chương 6, tiết 5 : « Lương dân có thể nhận ra Người qua một vài điềm báo ứng của họ ».
[68] Xem Chương 6, tiết 8 : « Giải đáp cho thắc mắc thường gặp nơi lương dân ».
[69] Sy
(Henri),
[70] Ví dụ : AMEP, vol. 121, p. 627-628 (Ký sự
tháng 6.1662) ; AMEP, vol. 116, p. 553-554, 559 (Thư gửi cha Vincent
de Meur, 1662) ; AMEP, vol. 121, p. 657-658 (Ký sự cuộc tĩnh
tâm tháng 10.1663).
[71] AMEP, vol. 121, p. 582. (Đoạn thư này đã trích dẫn ở trước).
[72]
Archives de
[73] Bản dịch tiếng Việt của Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá, SĐD, trang 99-100.
[74] Bản dịch tiếng Việt của Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá, SĐD, trang 102.
[75]
Để biết chi tiết về những điểm
này, có thể đọc : Launay (Adrien), Histoire générale
de
[76]
« les vœux ne contiennent rien de blâmable, ni rien qui puisse être frappé
de censure théologique », (Adrien Launay, Histoire générale de
[77] Henri Sy, SĐD, trang 103.
[78] Về điểm cụ thể này, có thể đọc : Jean Guennou, SĐD, trang 131 ; hay Josef Metzler, SĐD, trang 32.
[79] Theo Louis Baudiment, Ủy ban Đặc biệt này gồm bốn hồng y được thành lập do chính yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Clêmentê IX sau khi tiếp Đc Pallu vào tháng 10.1667. (Xem Louis Baudiment, SĐD, trang 227).
[80] AMEP, vol. 169, p. 31 : « Decretum super votis missionarii ». (Bản dịch tiếng Pháp trong Henri Sy, SĐD, trang 104).
[81]
Adrien Launay, Histoire générale de
[82] AMEP, vol. 116, p. 577 ; vol. 169, p. 29 : « Inter caetera negotia ». (Bản dịch tiếng Pháp trong Henri Sy, SĐD, trang 104).
[83] Adrien Launay, Lettres de Mgr Pallu, tome I, SĐD, trang 120.
[84] AMEP, vol. 858, p. 215.
[85] AMEP, vol. 854, p. 222.
[86] AMEP, vol. 854, p. 221.
[87]
Bénigne Vachet, Chuyện Đức
Cha Lambert,
[88] Adrien Launay, Lettres de Mgr Pallu, tome I, SĐD, trang 119.
[89]
Adrien Launay, Histoire générale de
[90] Jean Guennou, SĐD, trang 131.
[91] Adrien Launay, Lettres de Mgr Pallu, tome I, SĐD, trang 95-96.
[92] Bản dịch của Đại Chủng Viện Xuân Bích ở Huế, báo Sacerdos Linh Mục Nguyện San, số 43, tháng 7 năm 1965, trang 429.
[93] Ký sự của Đc Lambert : AMEP, vol. 121, p. 661.
[94] Mgr Pallu, Relation Abrégée…, SĐD, trang 44-46.
[95] Chương X, tiết 3.