Đức cha
Lambert viếng thăm Đàng Trong lần đầu
(Kư Sự của cha Vachet)
Giới thiệu
Khi Đức cha
Lambert sang Đàng Trong lần thứ nhất th́ mang theo hai
thừa sai người Pháp là cha Mahot và cha Vachet. Một
trong hai thừa sai này là cha Vachet đă viết một
bản tường thuật khá tỉ mỉ về
chuyến đi, và bản tường thuật ấy
đă được Hội Thừa Sai Paris xuất
bản thành sách vào năm 1680 :
Relation des Missions et des Voyages des
Evesques Vicaires Apostoliques, et de leurs Ecclesiastiques ès Années 1672,
1673, 1674 et 1675.
(Paris, Charles Angot, 1680).
Trong tập sách trên, tường tŕnh chuyến đi
mục vụ của Đức cha Lambert tại Đàng
Trong năm 1671-1672 nằm ở 57 trang đầu tiên. Cha
Launay đă tái bản lại tường thuật ấy
trong sách :
Histoire de
(Paris, Téqui, 1923, trang 78-117).
(Tái bản năm 2000).
Chúng ta biết rằng bài
tường thuật trên của cha Vachet được coi
là trực tiếp, tức được viết ra vào
quăng những năm 1672-1673 tại Xiêm La. Sau này, khi về
hưu ở Paris, cha Vachet sẽ viết nhiều tập
hồi kư khác, trong đó ngài cũng kể lại chuyến
đi Đàng Trong năm 1671-1672. Những trang hồi kư
đó sẽ góp thêm một số chi tiết bổ túc vào bản
tường thuật đă xuất bản này.
Cha Vachet kể
chuyện rất khéo, truyền đạt được cho
độc giả những t́nh cảm chân thành của ngài.
Đó là những t́nh cảm yêu thương và kính trọng
của một linh mục đối với giám mục
của ḿnh. Đó là ḷng tin tưởng và vâng phục
của một thừa sai đối với bề trên
của ḿnh. Đôi khi, t́nh cảm riêng tư đó đă
đưa ngài đi hơi xa một chút, đến nỗi
đă như thần tượng hóa Đức cha Lambert lên.
Nhưng điều này có lẽ dễ hiểu và dễ
thông cảm thôi.
Và so với tất
cả những bài viết của cha Vachet mà chúng tôi
đọc được, có lẽ đây là bài viết có
giá trị lịch sử hơn cả. Đây cũng là bản
văn đầu tiên của cha Vachet được
xuất bản cho công chúng hay biết. Một trong những
yếu tố giúp giải thích điều trên, đó là yếu
tố về thời gian như sau.
Năm 1671, cha Vachet
vừa tới được Xiêm La ngày 30 tháng 6 th́ ngày 20
tháng 7 tiếp đó đă lên thuyền đi Đàng Trong
cùng Đức cha Lambert, tức chưa đầy 3
tuần lễ sau. Đối với vị linh mục
thừa sai trẻ tuổi vừa từ Âu châu sang, tất
cả đều mới lạ, tất cả đều
ngỡ ngàng. Năm đó, cha Vachet mới 30 tuổi.
Tường thuật gần như trực tiếp, cha
Vachet sẽ kể ra những điều mắt thấy
tai nghe, chưa bị thời gian xóa mờ hay làm lẫn
lộn những kỷ niệm.
Nói thế, chúng ta
vẫn b́nh tĩnh thấy rằng không bản tường
thuật nào có thể hoàn hảo được. Bản
tường thuật của cha Vachet vẫn có ít nhiều
sai lầm, cách riêng về một vài con số. Quả
thực, cha Vachet là người viết văn hơn là
người viết sử, có khuynh hướng viết
chuyện các thánh hơn là viết chuyện khoa học chính
xác, nặng t́nh cảm đạo đức hơn t́nh yêu
sự thật lịch sử.
C̣n một
điều nữa mà có lẽ chúng ta nên biết, đó là
cách thức mà thời đó ban giám đốc Hội Thừa
Sai Paris cho xuất bản các bài viết của những
thừa sai gửi về. Các vị linh mục này từ
chối xuất bản một số điều, cách riêng
là những điều tiêu cực về các thừa sai ḍng
Tên, cho dù đó là sự thực. Có lẽ họ không
muốn làm mất ḷng hay sợ làm mất ḷng các cha ḍng này
là các vị tu sĩ đang có rất nhiều uy tín thế
lực tại triều đ́nh vua nước Pháp lúc đó
là vua Louis XIV. Bởi thế, trong tường thuật
của cha Vachet được xuất bản ra, ta sẽ
thấy có thiếu xót chi đó trong chuyện cha Barthélémy
d’Acosta, người Nhật Bản, thuộc ḍng Tên,
đến gặp Đức cha Lambert. Và khi đọc
tới chuyện Đức cha Lambert và cả cha Vachet
bị ngă trọng bệnh vào cùng một lúc, th́ bản
tường thuật lại không nói cho chúng ta rơ tại sao
các vị lại đột ngột ngă bệnh thập
tử nhất sinh như thế. Có lẽ người ta
đă tự nguyện t́m tránh cảnh « sự thật
mất ḷng » chăng ?
Rất mong quư
bạn hăy vui đọc những trang sau đây để
biết thêm đâu là sự thực, dù chỉ là một hai
điểm nhỏ mọn, trong lịch sử Giáo Hội
Việt Nam.
Đào Quang Toản
Mùa Chay 2010
Chương I
Từ Xiêm La
tới Đàng Trong
Lên
đường từ Xiêm La.
Chúng tôi lên thuyền
ngày 20/7/1671. Đó là một thứ thuyền mà tiếng
Đàng Trong gọi là thuyền bầu. Con thuyền
được lèo lái bởi duy nhất bốn dân chài
người Đàng Trong. Nói cho thực, chớ có kém ḷng tin
vào Thiên Chúa khi ra đi trên một con thuyền như
vậy. Bạn hăy cứ tưởng tượng một
con thuyền không đinh, không rợ, không mảnh sắt,
không vải buồm và không hoa tiêu, mà dám rời xa
đất liền. Bạn hăy h́nh dung một mớ vài ba mảnh
ván nối lại với nhau cách sơ sài và buộc chung
lại với nhau bằng những sợi giây tựa
như những sợi mây thô thiển, những mỏ neo
th́ làm bằng gỗ, những cánh buồm là các mảnh
chiếu gắn vào những cái cột là mấy thân cây tre,
và bánh lái thuyền nằm ở một cái lỗ phía sau con
thuyền, chỗ ấy nước dạt ra dạt vào
rất dễ dàng. Chính là với những trang thiết
bị như vậy mà chúng tôi khởi hành một chuyến
đi xa cả hai trăm dặm đường vào một
mùa đă thật cuối kỳ đi biển, đến
một xứ sở đang lúc chiến tranh, và trên một
vùng biển băo tố lúc nào không hay và đầy dẫy hải
tặc.
Nếu chỉ
lấy cái khôn ngoan của con người làm mẫu mực
trong những t́nh huống như thế, th́ rất
nhiều kẻ sẽ kết án là liều lĩnh dại
dột mà ra đi như vậy. Một ông khu trưởng
người Anh quốc, là người mà tôi chỉ cho
thấy con thuyền của chúng tôi, đă quả quyết
với tôi rằng dù người ta hứa với ông cho ông
ăm ắp những vàng ṛng chất đầy con
thuyền người Đàng Trong đó, th́ ông cũng
chẳng hề ao ước sự ǵ hơn trên cơi
đời này là đừng phải bước chân lên con
thuyền đó. Ông tuyên bố vậy cho dù chính ông đă t́m
tới vùng Ấn Độ Dương này là chỉ
để lo làm giầu mà thôi. Nhưng đấy không
thể nào là lời ăn tiếng nói, cũng không thể
nào là tư tưởng của một thừa sai giảng
đạo được.
V́ chẳng
được liều mạng cách vô lư, ta chẳng
phải lo sợ quá đáng khi đưa ḿnh vào nguy nan nào
đó hầu lo cho việc đạo được phát
triển. Ta phải luôn luôn sắp sẵn một con
thuyền thiêng liêng nhỏ mà thân thuyền là đức tin,
bánh lái thuyền là ḷng bác ái, cột buồm là đức
cậy, cánh buồm là ḷng nhiệt thành, giây dợ, mỏ
neo và mái chèo là ḷng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Linh
hồn đă có sẵn những nhân đức ấy th́
dập dềnh lướt sóng trên một con thuyền
bầu nhỏ cũng an toàn như trên một con tàu to
lớn nhất, điều mà người ta sẽ
nhận thấy qua chuyến đi biển thành công của
chúng tôi.
Khi rời Xiêm La.
Đức cha Bêrytê
(tức Đc Lambert) không thể ra khỏi đất
nước Xiêm La mà không có sự ưng thuận của nhà
vua xứ này. Phải khó khăn lắm ngài mới xin
được sự ưng thuận đó. Nhà vua cũng
như vị đại thần vương quốc cho
người nhắn nhủ nhiều lời với ngài
rằng đừng liều lĩnh đem thân ngài vào
một nỗi hiểm nguy đương nhiên như
vậy. Nhưng sau cùng, đấng này vị nọ
đều nhượng bộ trước những nài xin
của vị giám mục ấy. Sau khi đă
được giấy phép mà ngài yêu cầu, ngài đă
lập cha Laneau làm cha tổng đại diện tại
vương quốc mà ngài rời đi, thể theo năng
quyền mà mới đây đoản sắc của
Đức Giáo Hoàng Clêmentê thứ IX đă ban. Theo
đoản sắc đó, Đức Thánh Cha đă nới
rộng quyền tài phán của các giám mục đại
diện tông ṭa lên đất nước rộng lớn
này.
Xuôi ḍng sông ra
cửa biển.
Như vậy,
tất cả mọi khó khăn để khởi hành
được cất khỏi, chúng tôi xuôi ḍng sông. Ḍng sông
này, như người ta biết, có thể đón nhận suốt
trên 80 dặm dài các con tàu của những hải cảng
lớn nhất ; và con sông duyên dáng chẩy bao quanh chân
tường thành kinh đô Xiêm La, rồi từ đó mà ra
tới biển chỉ c̣n lại là 40 dặm. Dọc ḍng
sông th́ không ngừng có vô số tàu bè thuộc mọi
quốc gia chở đầy dẫy hàng hóa từ Ấn
Độ, Nhật Bản,
Mặc dù gió không
mấy thuận tiện, chúng tôi chỉ mất ba ngày là ra
tới được cửa sông. Lúc đă qua khỏi
đó, chúng tôi gặp thấy ngay những ḥn đảo đầu
tiên dọc theo bờ biển cho tới lúc vào Cam Bốt.
Đi biển.
Ngày nào chúng tôi
cũng được cái thú vui và cái tiện lợi là câu
được những con cá ngon nhất trần gian ;
chiều nào, chúng tôi cũng thả neo tại một ḥn
đảo nào đó có nước ngọt. Nhờ vậy,
cái khó chịu khi đi thuyền được bù
đắp lại rộng răi nhờ những lợi
thế nho nhỏ đó.
Nhưng bởi v́
một chuỗi dài may mắn dễ dàng th́ chẳng hợp
với đời sống thừa sai, nên chúng tôi sẽ
sớm sống trong t́nh huống mà những ai cứng
rắn nhất vẫn có thể bị nao núng ḷng can
đảm và khí khái.
Băo tố.
Vào khoảng
chừng mười lăm ngày trôi qua sau khi chúng tôi khởi
hành, chúng tôi đă tưởng ḿnh bị vong mạng trên
một đoạn đường 12 dặm từ đảo
này sang đảo nọ. Buổi sáng hôm đó, gió thật
hiền ḥa ; khoảng buổi trưa th́ gió đổi
thành một trận băo tố kinh hoàng và một cơn
mưa khủng khiếp. Dù mưa, gió vẫn dữ dội
khốc liệt, có lúc gió làm biển xô dậy thành cả
hàng ngàn tảng núi và rồi tức th́ lại thành những
vực sâu thăm thẳm hăi hùng. Con thuyền nhỏ
của chúng tôi bị sóng biển và phong ba dập đánh điên
cuồng. Các thủy thủ chúng tôi, với tất cả
khéo léo và can trường của dân tộc họ, đă lo
sợ bị đắm thuyền. Họ vội vă chặt
bớt một phần cánh buồm, phần c̣n lại dính
chặt vào cột thuyền th́ làm tṛ chơi cho gió lốc.
Họ lại càng lo
sợ hơn nữa khi thấy ḿnh ở giữa hai t́nh
cảnh hiểm nghèo : trước mặt chúng tôi là
một tảng đá to lớn đang đe dọa sẽ
đập vỡ tan tành con thuyền nếu không mau mắn
ĺa xa ra, và con thuyền chúng tôi lại không xa đó lắm, c̣n
bị gió thổi dạt về đó nữa. Phía bên kia là
đất liền, nhưng có những dải cát trải
ra biển tới cả nửa dặm, những con sóng biển
đập lên các dải cát như cuồng điên,
chẳng ai có thể tưởng tượng
được nếu chưa từng chứng kiến
tận mắt. Bởi v́ những ḍng sông dâng nước
mau chóng tràn qua bờ, qua đê, và những ḍng thác lũ giận
dữ cuốn theo hàng loạt đá sỏi từ từ
lăn đi tạo nên một âm thanh rầm ŕ khác hẳn
với tiếng sóng ngầm rợn rùng vang dội c̣n xa
hơn cả tầm tiếng súng đại bác nữa.
Các thủy thủ
chúng tôi không biết chọn giải pháp nào. Bởi v́, ra
biển th́ là chuyện không thể được ;
hướng vào tảng đá th́ chắc chắn sẽ
bị đắm thuyền ; quay về đất
liền th́ là sự liều lĩnh thấy rơ, v́ phần
th́ do sóng ngầm, phần th́ xem ra bờ biển lại
đầy đá tảng, và như thế th́ cũng nguy
hiểm y như hướng vào tảng đá vậy. Tuy
nhiên, đối với chúng tôi, giải pháp sau cùng này có
phần khá hơn, chúng tôi cố thuyết phục các
người Đàng Trong theo giải pháp đó. Sau khi chúng
tôi phó ḿnh cho sự quan pḥng của Thiên Chúa, với ư
nghĩ rằng chúng tôi chỉ c̣n lại một nửa
giờ đồng hồ
để sống mà thôi, chúng tồi liều ḿnh vào
giữa những trận sóng biển mà chỉ nh́n thôi
cũng đủ làm những ai gan dạ nhất phải
hăi sợ.
Thoát nạn.
Để tránh
những cơn sóng nhận ch́m chúng tôi bất th́nh ĺnh,
mỗi người chúng tôi ngồi xuống sàn con
thuyền bầu, tay cầm mái chèo, cố giữ con
thuyền không để cho sóng đánh ngang hông, bằng
không chúng tôi sẽ bị vong mạng không đường
cứu chữa. Sau cùng, vượt trên mọi niềm hy
vọng của con người, con thuyền của chúng tôi
dạt vào đất liền quăng một tầm súng
bắn. Ngay tức th́, các thủy thủ, hai linh mục
người Đàng Trong và các gia nhân liền nhẩy
xuống nước để đưa chúng tôi vào bờ
xa biển nhất có thể.
Tôi đă từng
chứng kiến tại Madagascar cảnh đắm tàu
một con tàu tên là Saint Jacques và một sà lúp tốt nhất
trong các sà lúp mà người ta có thể tạo dựng.
Cả hai con tàu ấy đều bị đập vỡ
trên băi cát do những cơn sóng biển kém dữ dằn
hơn những cơn sóng mà chúng tôi vừa thoát khỏi.
Ôi, thật là
tốt khi giữ được một tinh thần tinh
sạch ! Chỉ có tinh thần đó mới có thể
cầm giữ được sự phán đoán trong
những t́nh cảnh như vậy.
Tôi để ư quan
sát hai hay ba lần Đức cha Bêrytê. Tôi thấy ngài luôn
luôn giữ nét mặt b́nh thản và vui tươi như
thường lệ. V́ ngài nhận thấy tôi ngạc nhiên
trước cái b́nh an nơi ngài, ngài mỉm cười nói
với tôi, đó là dấu hiệu tinh thần ngài luôn
vững vàng và ḷng ngài luôn an b́nh, rằng t́nh trạng mà chúng
tôi gặp phải, không được làm chúng tôi ra khó
chịu, đó là chuyện đi theo với việc dấn
thân của chúng tôi. Ngài thêm rằng :
« Tất cả những ǵ mà
chúng ta phải lo, là chúng ta ở trong mệnh lệnh
của Thiên Chúa. »
Lưu lại trên
đất liền.
Sau khi thoát nạn,
chúng tôi chỉ c̣n nghĩ tiếp tục cuộc hành tŕnh
không trễ nải, tại v́ chúng tôi c̣n ít lương
thực và mảnh đất mà Đấng Quan Pḥng đă
ném chúng tôi lên lại khô khan chẳng đem lại chi cho
cuộc sống con người. Người ta chỉ
thấy ở đây tê giác, cọp và lợn rừng mà thôi.
Nhưng con thuyền của chúng tôi lại trong t́nh
trạng không thể ra biển được trước
khi tu sửa lại. Bởi thế, chúng tôi lo không biết
chúng tôi sẽ ra sao. Lúc đó, một thủy thủ
của chúng tôi đi thăm ḍ bờ biển đă kể
lại cho chúng tôi rằng có một con sông nằm cách đó
một phần tư dặm đường, chúng tôi có
thể đưa con thuyền tới đó được
nhờ nước thủy triều dâng cao, và ở đó
có phương tiện để sửa chữa con
thuyền v́ cần phải sửa chữa mới có
thể hoàn thành chuyến đi được.
Mau lẹ cách
mấy đi nữa th́ cũng phải đợi tới
mười lăm ngày trời. Chúng tôi đă vội vàng
dựng lên một chỗ trú thân nhỏ bằng thân cây và
lá. Chúng tôi lưu lại đó cho tới ngày 16 tháng tám. Chúng
tôi dựng lên một bàn thờ và mỗi ngày chúng tôi
đều dâng thánh lễ với nhiều niềm an
ủi.
Khi con thuyền
đă sẵn sàng, chúng tôi xuống ḍng sông đă khám phá ra và
cứ theo ḍng mà ra biển. Tám ngày sau th́ chúng tôi tới một
nơi trông thấy được cửa biển xứ
Cam Bốt. Đám người của chúng tôi không dám
đến quá gần cửa biển đó, bởi v́ nhà vua
xứ này đang có chiến tranh với xứ Đàng Trong,
ông sẽ cho chặt đầu tất cả những
người Đàng Trong nào mà người ta có thể bắt
được.
Tránh cướp
biển.
Nỗi e sợ trên
không phải duy nhất, v́ chỉ thiếu một chút xíu
nữa thôi là chúng tôi rơi vào tay bọn hải tặc lúc
chúng tôi muốn rời ra xa đất liền. Một
buổi sáng nọ, chúng tôi trông thấy một con thuyền
lớn gọi chúng tôi đến bằng tiếng Đàng
Trong, họ đốt lửa lên, đó là dấu hiệu
xin cầu cứu. Nhưng v́ chúng tôi nghi ngờ đó là
cạm bẫy nên chúng tôi mau lẹ rút lui. Hai ngày sau, chúng tôi
biết rằng chúng tôi đă không lầm, bởi v́ chúng tôi
lại thấy chính con thuyền đó trên đường
chúng tôi đi, (v́ gió cản khiến chúng tôi không vào
được một ḥn đảo nọ, điều làm
chúng tôi tiến cực kỳ nhanh chóng trên đường
đi). Chúng tôi nh́n thấy cái thái độ đi t́m
mồi của con thuyền đó. Sau cùng, để tránh con
thuyền ấy, chúng tôi vào một con sông lớn, chúng tôi
phí mất 12 tiếng đồng hồ trong đó khi đi
t́m một chút nước ngọt. Những rừng cây hai
bên bờ sông làm thành nơi trú ẩn cho hằng hà sa số
ruồi muỗi. Chúng không lớn hơn những ruồi
muỗi ở xứ chúng ta (bên Âu), nhưng trận
chiến mà chúng gây cho người ta suốt ban đêm th́
không thể nào phân b́ nổi. Vết cắn của chúng th́
rất đỗi đau nhức và những tiếng vo vo
của chúng th́ rất đỗi khó chịu, tất cả
đều vượt quá sức tưởng tượng
và chúng tôi buộc ḷng phải rời địa
điểm của chúng tôi ngay khi nước thủy
triều vừa lên.
Ngoài khơi Cam
Bốt.
Ngày hôm sau chúng tôi
nhận ra cửa khẩu tuyệt đẹp của con
sông Cam Bốt, chia ra ba nhánh khác nhau mà cả ba đều có
thể đón rước các tàu bè và dẫn tới kinh
đô cách biển 80 dặm. Tại chỗ đó, chúng tôi
gặp lại lần thứ ba con thuyền của bọn
hải tặc. Họ tin rằng chúng tôi không thể nào
thoát được họ nữa. Bởi thế, xem ra
thật khó mà thoát khỏi tay bọn chúng, nếu chúng
muốn bắt chúng tôi bằng sức mạnh. Nhưng v́
chúng tôi ở đầu ngọn gió, chúng tưởng
tượng ra là tốt hơn phải dùng mưu mẹo
để bắt chúng tôi. Chúng làm tất cả những ǵ có
thể để lôi kéo chúng tôi về phía chúng. Lúc th́ chúng gây
sợ hăi, lúc th́ lại tỏ ra xông xáo liều lĩnh.
Chúng căng tất cả các cánh buồm lên để lao
thẳng vào chúng tôi. Sau một lúc, chúng lại hạ
buồm xuống để mời chúng tôi phải
đề pḥng cảnh giác. Suốt ngày chúng tôi có
được gió thuận khiến chúng tôi đi mau hơn
bọn chúng, sau cùng màn đêm tới tách xa chúng tôi ra, và chúng
tôi không c̣n thấy bọn chúng nữa.
Ngoài khơi Chiêm
Thành.
Tuy nhiên, v́ đi
gần đất liền quá, chúng tôi bị mắc cạn
suốt năm tiếng đồng hồ. Rồi chúng tôi
t́m ra được cách để tiếp tục con đường
của chúng tôi với niềm hy vọng ngày hôm đó
tới được bờ biển Đàng Trong. Bởi
v́ chúng tôi đă sẵn sàng vượt qua mũi đất
Chiêm Thành, (là việc rất khó khăn khi người ta không
đi đúng thời). Buổi sáng, chúng tôi nh́n thấy
đỉnh cao những ngọn núi. Tới khoảng ba giờ
chiều, chúng tôi đến gần cách khá thuận tiện
để vượt qua mũi đất. Lúc đó,
xuất hiện một con tàu căng buồm đâm
thẳng về chúng tôi. Con tàu ấy có được
tất cả mọi ưu thế có thể tưởng
tượng ra được, và nếu nó muốn chận
đường đi thay v́ chạy thẳng về phía thuyền
chúng tôi, th́ nó đă chận được mọi lối
thoát của chúng tôi rồi. Nhưng vào lúc mà chúng tôi
chẳng c̣n chờ đợi chi nhiều nữa, và vào lúc
mà các người Đàng Trong của chúng tôi quả
quyết rằng chẳng c̣n cứu văn được chi
nữa, th́ Thiên Chúa đă định liệu một cách
khác. Chúng tôi chẳng để mất chí khí, v́ nhờ gió
thuận, chúng tôi cầm lấy mái chèo. Và ra sức chèo
chống, chúng tôi rời xa ra được những tên
cướp đó, chúng là những hải tặc
người Hoa, chúng có thói quen man rợ là chém đầu
tất cả những ai chúng bắt được,
để chẳng c̣n ai cáo tội chúng sát nhân và
cướp của. Chúng sợ bị mắc cạn
nếu chúng đuổi theo chúng tôi khi thấy chúng tôi quay
thẳng vào phía đất liền ; do đó, chúng
ngưng lại và để cho chúng tôi có giờ đi
thật xa vượt qua được cảng
Chương II
Tới Đàng
Trong
Niềm vui lúc
đến nơi.
Chúng tôi dễ dàng
quên hết những hiểm nguy và mệt nhọc trong
chuyến đi, nhờ niềm an ủi thấy ḿnh vào
tới một vương quốc nơi mà chúng tôi sẽ
gặp một trong những công cuộc truyền giáo
rực rỡ nhất của chúng tôi. Giây phút đầu
tiên vui mừng đó đủ để trả cho chúng tôi
những vất vả từ Pháp cho tới đây.
Thực sự th́
giữa những bất hạnh đó, họ không kém
phần hạnh phúc trước mặt Thiên Chúa so với
những kẻ đă thành tựu được cuộc
hải hành của họ. Bởi chưng, thực t́nh là
họ đă kết thúc cuộc đời của họ đang
lúc thi hành những mệnh lệnh của Đấng Quan
Pḥng. Nhưng sau tất cả, cứ xét những sự
việc theo bề ngoài và theo những cái lợi thực
tế khi làm việc cho sáng danh Chúa Giêsu Kitô giữa
những dân ngoại, tôi nói phải thú nhận rằng là
một ân huệ đặc biệt cho chúng tôi thoát
được từng đấy hiểm nguy và sau
chuyến đi cả sáu ngàn dặm đường, vẫn
c̣n khả năng làm những phận vụ tông đồ
trên một phần đất xa lạ.
Vào đất
Đàng Trong.
Suy nghĩ ấy an
ủi chúng tôi vô biên, cho dù chúng tôi vẫn lo sợ cách chính
đáng bị khám phá ra lúc đến nơi, và bị
dẫn tới nhà vua hay các quan lại. Để tránh tai
họa đó là tai họa có thể làm Giáo Hội yêu
dấu này rơi vào cuộc bách đạo, chúng tôi chọn
một nơi an toàn để cập vào bờ lúc ban
đêm và một cách kín đáo. Một trong các linh mục
người Việt đi đưa tin chúng tôi tới cho
một vài giáo dân đầu mục hay. Ngày hôm sau, cha
trở lại vào khoảng 10 giờ sáng, cùng với
một thầy giảng và một kẻ giảng và hai
người khác của một làng tên là
Những
người dân đáng thương này chưa hề bao
giờ thấy một giám mục ; hơn nữa,
họ lại không có mục tử nào từ ngày cha Hainques và
cha Brindeau qua đời. Họ như thấy hai vị
mục tử quá cố đó sống trở lại qua con
người chúng tôi. Từ chỗ đó, người ta có
thể hiểu được t́nh cảm nào trong trái tim
của họ.
Sau khi đă bàn
luận với họ về điều phải làm,
quyết định chung là chúng tôi hăy ẩn ḿnh trong con
thuyền suốt ngày hôm đó và vào quăng 7 giờ tối,
chúng tôi sẽ rời thuyền đi xa biển một
dặm đường tới nhà một giáo dân là
người đă tới gặp chúng tôi. Các giáo dân khác có
thói quen tụ họp lại nhà ông ta vào các ngày chúa nhật
và các ngày lễ.
Nhưng
trước tất cả mọi sự, nếu có thể
được, phải lo liệu tránh hai điều
phiền phức sau : phải tránh sao đừng
để con thuyền của chúng tôi bị chận
giữ tại hải quan, (v́ người ta ắt sẽ
biết chúng tôi là ai khi khám xét những đồ lễ
của chúng tôi), và tránh sao đừng để quan
trấn xứ [quan tỉnh trưởng] là người
ngoại giáo, nghe nói đến chúng tôi. Chỉ có ḿnh Thiên
Chúa mới có thể bảo đảm chúng tôi khỏi tai
họa này hay tai họa nọ, bằng một sự che
chở đặc biệt đối với tất cả
những giải pháp do sự cẩn thận nhỏ bé
của chúng tôi đưa ra. Chính trong những t́nh huống
này mà chúng tôi mới cảm nghiệm được sự
trợ giúp tỏ tường từ Trời Cao. Quả
vậy, thật đáng lo sợ trước biết bao
nhiêu là con người mà chúng tôi có thể làm họ sinh nghi
ngờ, cho dù chúng tôi dè giữ đến đâu đi
chăng nữa.
Rời con
thuyền.
Để rời
thuyền cách âm thầm, theo lệnh của các thầy
giảng, một vài con thuyền bầu của giáo dân ban
đêm đă tới cạnh con thuyền của chúng tôi. Họ
chất vào thuyền của họ các gói hành lư của chúng
tôi và họ dễ dàng được xem như những ngư
phủ đi đánh cá trở về. Người ta
đặt lên con thuyền chúng tôi những thủy thủ
xa lạ là những người sẽ không bị khám xét
cũng không bị bắt giữ tại hải quan,
cũng như các thủy thủ khác. Về phần chúng
tôi, người ta cho chúng tôi đi đường bộ,
Đức cha Bêrytê th́ được khiêng đi trong vơng có
màn che, và cha Mahot và tôi th́ đi bộ theo sau, ăn mặc
theo kiểu người dân Đàng Trong.
Theo cách đó, chúng
tôi vào nhà người giáo dân tốt lành ngày thứ nhất
tháng chín năm 1671, khoảng hai tháng sau khi chúng tôi khởi
hành từ Xiêm La. Tôi đă xem nhà đó như giáo xứ
đầu tiên của Đàng Trong, tại v́ chúng tôi gặp
ở đấy một số đông đảo tín
hữu khao khát các bí tích. Người ta tính được
hơn 800 người làm thành đoàn chiên nhỏ này.
Tất cả đều lần lượt đến lănh
nhận phép lành của giám mục của họ mà họ
gọi bằng ngôn ngữ của họ là Cha Cả. Chúng
tôi th́ không thể nào giải tội cho họ
được, điều mà chúng tôi rất lấy làm
buồn tiếc. Tôi th́ chẳng có một chút ư niệm nào
về tiếng xứ Đàng Trong ; c̣n về phần
Đức cha Bêrytê và cha Mahot, th́ phải chờ hơn
một tháng trời sau các ngài mới nói và nghe tiếng
Đàng Trong cách đầy đủ. Để an ủi
chúng tôi với họ, chúng tôi hứa với họ sẽ
trở lại trong ṿng hai tháng nữa lúc chúng tôi đă có
khả năng giúp đỡ họ.
T́nh trạng tôn
giáo.
Lời nói trên
của chúng tôi với ḷng thành thực đă làm họ an tâm
một chút. Nhưng chúng tôi không thể nào xin được
họ rút lui đi và đừng tụ họp lại
đông đảo. Ḷng đói khát Phúc Âm nơi họ không
cho phép họ rời xa khỏi những người từ
rất xa xôi đến cho họ thưởng nếm hương
vị ngọt ngào của Phúc Âm. Họ mong muốn ít
nữa là trông thấy những người này, bởi v́
những người này chưa thể nói chuyện với
họ được.
Chẳng biết
sao, tất cả những ǵ tôi nh́n thấy nơi họ
đă khiến tôi có ư tưởng nào đó về Giáo
Hội sơ khai : tất cả họ đối
với tôi như chỉ có một con tim và một tâm
hồn, họ tương trợ nhau như anh em, họ
nâng đỡ nhau trong tất cả những sự cần
thiết, họ hiểu biết rơ tất cả những
ǵ liên quan tới đức tin và phong hóa của đạo
thánh chúng ta, trừ ra những Điều Răn Hội
Thánh mà cho tới lúc đó họ chưa từng nghe nói
đến. Với một sự trung thành đáng ca
ngợi, họ thực hành tất cả những ǵ họ
học được từ các thầy giảng. Sự
săn sóc và canh chừng của các thầy giảng đă
giữ ǵn họ trong sự trong trắng và trong niềm
đoàn kết chặc chẽ với nhau.
Những trẻ em
nhận được hoa quả đầu tiên của sứ
vụ truyền giáo. Chúng tôi ban phép thêm sức cho trên 200 em
với một vài người lớn mà các linh mục
người Việt đă giải tội cho. Nhiều
người ngoại xin được rửa tội,
nhưng chúng tôi chỉ ban phép rửa tội cho những ai
chúng tôi thấy đă được chuẩn bị kỹ
lưỡng, và những người khác th́ được
lưu lại cho tới khi nào họ có khả năng
hơn nhờ thừa tác vụ của các thầy
giảng. Tuy nhiên, v́ Đức cha Bêrytê biết tầm quan
trọng phải dạy dỗ chu đáo các kẻ ngoại
tân ṭng trước khi rửa tội cho họ, ngài nghĩ
rằng không phải giao phó việc này cho riêng các thầy
giảng. V́ cẩn thận và v́ nhiệt thành, ngài
để lại nơi này một thừa sai với cha
Luca, linh mục người Việt, chăm lo cho những
kẻ đă là Kitô hữu trong khắp các vùng này (mà con
số lên tới 3.000 người, tính luôn cả các làng
mạc lân cận) ; và cũng để hai ngài gặt
hái lấy hoa quả mà Đấng Quan Pḥng hứa ban trong
một thời gian ngắn tới đây, nếu
được vun xới. Bởi v́ người ta có
thể vui mừng rằng gần như không có
người dân ngoại nào mà không muốn nghe giảng
dạy giáo lư đức tin ; và những kẻ vị
vọng nhất chắc hẳn không những đă nghe mà
lại đă đón nhận đức tin với trọn
tấm ḷng, nếu như họ không bị ngăn trở
v́ một vài lợi lộc bất hạnh mà ơn thánh Chúa
sẽ giúp họ thoát khỏi với thời gian.
Chương III
Tại vùng Nha Trang
Ông quan có
đạo.
Một ông quan
lớn là quản lí xứ mà chúng tôi cập bến. Ông và
cả gia đ́nh đều có đạo. Trên
đường từ triều đ́nh về th́ ông nghe tin có
Đức cha Bêrytê đến. Không chờ đợi ǵ
thêm, ông liền rẽ xuống nơi chúng tôi trước
khi về nhà ḿnh, mà ở nhà, vợ con ông đang nóng ḷng mong
ông v́ những công việc cấp bách. Trước hết,
ông đến bái quỳ dưới chân vị giám mục.
Và sau khi đă tỏ ḷng tôn kính sâu thẳm của ông
đối với ngài và với các vị giáo sĩ tháp tùng
ngài, ông cám ơn ngài về những ân nghĩa ngài ban cho Giáo
Hội Đàng Trong. Tiếp đó, ông nói với ngài
rằng cha Hainques rất thường nói với ông về
công trạng của ngài, rằng ông đă biết chức
vị của ngài dù không hề thấy bản thân ngài,
rằng ông không phải là không hay biết ǵ về chức
phẩm của ngài trong Giáo Hội, về những ân
lộc ngài đă bỏ lại bên Âu châu và về những
gian khổ ngài đă chịu đựng để
đến trong những xứ phương đông này. Ngoài
ra, ông đến để dâng ngài tất cả những
ǵ thuộc quyền hạn của ông và ông sẵn sàng
phục vụ ngài tất cả những ǵ ngài có thể
cần đến.
Sau cùng, ông ta thêm
rằng ông quen biết cách rất riêng tư vị quan
trấn thủ xứ này và ông nghĩ cần phải báo cho
vị quan trấn ấy biết tất cả mọi sự.
Đắn đo lo
lắng.
Lời nhắn
nhủ trên làm chúng tôi ngạc nhiên. Bởi v́, ai lại
đi thố lộ ra cho một vị quan trấn
ngoại giáo là người mà theo phận vụ phải
tấu tŕnh lên nhà vua tất cả những ǵ ông hay
biết được ? Thực sự, ông quan đă
trấn an chúng tôi rằng vị quan trấn sẽ triệt
để giữ bí mật cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi
gần như không dám yên tâm tin tưởng như vậy,
tại v́ chúng tôi không thể cho rằng một kẻ
ở chức vị cao lớn như thế lại
muốn bỏ liều gia sản ḿnh và bản thân ḿnh v́
những kẻ không quen biết và v́ một tôn giáo ngoại
lai. Gương mà người ta mới có đây về
một vị quan trấn nọ hiện vẫn c̣n nằm
trong tù ngục khốn khổ, bởi đă không báo tin cho
triều đ́nh biết một con thuyền người
Hoa đến trong xứ, hẳn đă làm cho vị quan
trấn này phải lo sợ. Thực vậy, để
người
Tuy nhiên tất
cả sự ấy chẳng làm cho ông quan đó hăi sợ.
Ông c̣n đưa ra những lư do mạnh mẽ nhằm thi
hành ư định của ông đến đỗi các
người vị vọng trong giới giáo dân đều
bị thuyết phục, dù họ vẫn lo sợ. Chỉ
có ông quan là tỏ ra cứng rắn, với một viên lănh
binh nọ là người đứng đầu một binh
đoàn cả trăm người. Viên lănh binh, với
niềm tự tin xứng đáng là một người lính
có đạo, dấu chứng một ḷng hào hiệp quả
cảm, đă cao giọng tuyên bố hầu khích lệ
những ai nhút nhát rằng : « Ê,
khi phải chết, th́ có chi quan trọng ? »
Chuẩn bị
gặp vị quan trấn.
Quyết
định như vậy rồi, ông quan liền ra đi ngay
để gặp vị quan trấn. Và sau khi đă khéo léo
ḍ ư tứ vị quan trấn, ông quan chẳng giấu
diếm vị quan trấn này sự ǵ. Tâm t́nh rộng
mở đó đă lấy được ḷng vị quan
trấn. Thay v́ cảm thấy phiền hà, vị quan trấn
này đă vui thích đón nhận tin tức trên. Vị ấy
c̣n hứa với ông quan trung gian rằng sẽ chẳng
xẩy ra chuyện phiền phức nào cả miễn là
chúng tôi lo liệu đừng tụ họp quá nhiều
người và quá rầm rộ. Và để làm ơn và
giữ ḷng chân thành cho trọn, vị quan trấn ấy nói
rằng muốn viếng thăm Đức cha Bêrytê, không
phải tại nhà vị ấy, nhưng tại nhà ông quan.
Chúng tôi rất
muốn tránh được cuộc viếng thăm trên
để khỏi phải liều lĩnh mọi sự,
nhưng đành phải tuân theo thôi. Tất cả mọi giải
pháp mà chúng tôi t́m ra được trong trường hợp
lỡ tai nạn nào xảy đến với Đức
cha Bêrytê, là dấu kín một thừa sai và một
linh mục người Việt hầu trợ giúp cho giáo
dân cách bí mật, nếu chúng tôi bị bắt giữ.
Lo xa vậy rồi,
ban đêm, chúng tôi đi vơng che tới nhà ông quan cách nơi
chúng tôi ở là 5 dặm đường. Sáng sớm th́
chúng tôi tới nơi, chúng tôi dâng thánh lễ và Đức
cha Bêrytê ban phép thêm sức cho 30 trẻ em. Phần c̣n
lại trong ngày đó th́ dùng để bàn thảo t́m
phương cách nào củng cố và hoàn hảo hóa t́nh
trạng tôn giáo. Vào buổi chiều, Chúa Quan Pḥng ban cho chúng
tôi một thầy giảng xuất sắc mà bà vợ
đă vui ḷng đồng ư cho chồng nhận chức
vụ đó và thi hành các nhiệm vụ mà chính yếu là
giảng dạy, rửa tội và xướng kinh trong các
buổi hội họp giáo dân.
Gặp vị quan
trấn.
Vị quan trấn
thủ đến một ḿnh vào nửa đêm trong lúc
mọi người đang say ngủ, vị quan trấn
ấy không muốn ai nh́n thấy ông. Buổi thăm
viếng của vị quan rất thú vị nhất là v́
chúng tôi đă quá lo ngại. Vị quan bảo đảm
với chúng tôi về t́nh cảm tốt đẹp của
ông và sự bao che của ông trong phạm vi bản xứ
của ông. Vị quan nói với Đức cha Bêrytê rằng
ông không dám dâng cho ngài một căn pḥng trong dinh thự
của ông, bởi v́ ở đó có quá nhiều
người. Nhưng nếu ngài muốn lưu lại
ở trong địa hạt thuộc quyền hành chánh
của ông, ông sẽ cấp cho ngài một ngôi nhà và một
khu vườn có tường rào quanh cẩn thận. Vào lúc
này, tốt nhất là ngài nên sống ẩn ḿnh, cho tới
khi nào có cơ hội tốt để thưa chuyện
với nhà vua, và vị quan thấy đó không phải là
điều khó khăn lắm. Nếu xảy ra chuyện
người ta tiếp tục cuộc bách hại các
người có đạo, chúng tôi sẽ có một nơi
ẩn náu an toàn trong phần đất của vị quan
trấn. Vị quan trấn nói :
« Tôi tin chắc rằng các ngài rao
giảng đạo của Thiên Chúa thật, tôi nghĩ
rằng tôi sẽ sung sướng nếu công việc
của tôi không bó buộc tôi phải tuân theo tôn giáo của nhà
vua tôi, nhưng tôi hy vọng sự việc sẽ thay
đổi, và có thể ngày nào đó, tôi sẽ thấy trong
vương quốc này có một sự tự do hoàn toàn
để theo giữ đạo giáo của các ngài. »
Cuộc tṛ
chuyện chấm dứt như vậy. Vị quan muốn
đưa chúng tôi trở về nhà bằng voi hay ngựa,
nhưng chúng tôi từ chối. Chúng tôi dùng lại
phương tiện đă dùng để tới đây.
Nhưng để chứng tỏ ḷng thành của ḿnh,
chẳng nói năng ǵ, ít ngày sau đó, vị quan trấn
gửi đến cho chúng tôi một giấy thông hành chính
tay vị quan ấy viết để chúng tôi không bị ai
khám xét. Giấy đó đă giúp chúng tôi vô cùng trong rất
nhiều cơ hội.
Tới Nha Ru.
Ư định chính
của Đức cha Bêrytê khi đến trong xứ Đàng
Trong là sớm nhất có thể phải tới Hội An. Một
phần, v́ nơi đó số giáo dân đông đảo và
nhiệt thành đă tạo nên một trong những giáo đoàn
(Église) đẹp nhất đất nước ;
một phần, v́ chính tại khu vực trên là nơi cha
Hainques và cha Brindeau đă từ trần. Chúng tôi chuẩn
bị mọi sự để đến đó
trước khi mùa mưa trở thành khó chịu hơn, dù
mưa đă khởi sự lâu rồi.
Chúng tôi để
lại một thừa sai trong xứ mà chúng tôi rời
bỏ. Tất cả mọi người khởi sự lên
đường cách lặng lẽ để tránh bị chú
ư. Chúng tôi dừng chân chốc lát khi đi ngang qua xứ Nha
Ru hầu yên ủi giáo dân tại đây. Bằng không,
chắc họ sẽ kêu ca, nếu chúng tôi thích đến
thăm xứ Phủ Mới hơn là thăm họ.
Phủ Mới th́ quan trọng hơn và rộng lớn
hơn Nha Ru. Nhưng chúng tôi xin họ vui nhận rằng
chúng tôi sẽ không dừng chân lâu tại Nha Ru v́ mùa gió
chướng đang tới rồi và cần phải
chuẩn bị để tránh đi mùa gió.
Ông quan trấn thủ
xứ Nha Ru.
Đă có tới gần
100 người dự thánh lễ do Đức cha Bêrytê dâng
vào đêm thứ hai sau khi chúng tôi đến. Ông quan
trấn thủ xứ này cho người đem vơng che
đưa chúng tôi tới nhà
Tuyên bố trên
khiến vị khách của chúng tôi phải dùng tới tài
khéo léo của ông để biếu quà cáp cho chúng tôi,
điều mà ông đă dự tính trước mà chẳng
hề nói ǵ với chúng tôi. Bởi v́ ông ta gặp chúng tôi
hôm trước ngày chúng tôi lên thuyền, ông cho người
kín đáo đem vào thuyền chúng tôi đường phèn,
mứt, gạo hảo hạng và hơn 60 bánh sáp ong. Ông
lại c̣n muốn cấp thuyền cho chúng tôi và trang
trải mọi phí tổn chuyến đi tới xứ
Nước Mặn nữa. Chúng tôi tới đó sau một
ngày và một đêm, mặc dù b́nh thường phải
bỏ ra bốn ngày trời cho quăng đường này.
Chương IV
Đức cha ngă
bệnh
Cha Barthélémy d’Acosta.
Khi đặt chân
xuống đất liền tại bến cảng
đầu tiên, chúng tôi được tin cha Barthélémy
d’Acosta, ḍng Tên, người Nhật, chỉ ở cách chúng
tôi 4 dặm đường. Tin này làm chúng tôi vui mừng
lắm trong niềm hy vọng sẽ gặp
được cha và đàm đạo với cha.
Ngay khi cha ấy
biết Đức cha Bêrytê ở rất gần đó, th́
cha đến kính chào ngài. Và sau nhiều nghi phép xă giao qua
lại giữa đôi bên, vị linh mục ấy nói
với chúng tôi rằng người ta rất lo phiền
về một chuyến tàu đă lên đường đi
Macao năm vừa qua. Trên đó có linh mục Marquez. Có
tiếng đồn rằng con tàu đó đă bị
đắm. Tai nạn này lại rất đáng lo ngại
hơn nữa v́ có thể nhà vua Đàng Trong lợi dụng
cơ hội này mà bách hại những người thợ
Phúc Âm. Lư do là nhà vua đă trao phó cho cha Marquez 10.000 quan
tiền êcu để cha này lo một vài công việc
được ủy thác. V́ người ta không thể thi
hành được lệnh truyền đó, cha Acosta tin
rằng người ta sẽ không dám gửi một con tàu
nào từ Macao đến đây vào năm này và chắc c̣n
lâu lắm mới có tàu Macao trở lại đây, v́ sợ
vua Đàng Trong bắt giữ lấy để bồi
thường khoản tiền vua đă đưa ra.
Chúng tôi thông cảm
chia sẻ chuyện buồn này, nên chúng tôi không vui nhận
được những điều an ủi khác như
chúng tôi có thể làm. Giáo hữu th́ từ khắp nơi
nhiệt thành tuôn đến, và ước ao hưởng
nhận sự hiện diện của chúng tôi. Điều
ấy khiến chúng tôi rất vui mừng sung sướng.
Nhưng niềm vui này sẽ vội nhường chỗ
cho một nỗi buồn nặng trĩu v́ t́nh trạng
nguy kịch của Đức cha Bêrytê. Ngài đă quyết
định không dừng chân lâu tại nơi này, nhưng
ngoài ư muốn ḿnh, ngài buộc phải lưu lại hơn
6 tuần lễ ṛng ră do bệnh hoạn của ngài.
Đức cha
đau liệt giường.
Cơn sốt
đầu tiên của ngài kéo dài 36 giờ đồng
hồ, với những cơn đau dữ dội. Tôi
gửi ngay người đi Hội An báo tin cho cha Guyart,
một đồng nghiệp của chúng tôi, và xin cha ấy
hăy dẫn ông thầy thuốc người Pháp đến
ngay đây với cha ấy. Cha ấy và ông này đă rời
Xiêm La bốn ngày sau chúng tôi. Dù có khẩn trương đến
đâu th́ cũng phải mất 7 hay 8 ngày đường
đi, và cũng từng đấy ngày trở về. Tôi
sợ rằng trợ giúp mong chờ sẽ tới quá
trễ. Bởi v́ tất cả mọi sự đều
góp lại mà làm suy yếu bệnh nhân : thân nhiệt th́
mỏng manh, cơn sốt th́ phũ phàng, thời tiết
th́ là mưa và sương mù tại một nơi bao
bọc bởi núi đồi và đầm lầy, thuốc
thang th́ thiếu thốn, và chính ngài th́ không thể ăn
uống chi được. Và để nỗi đau
buồn được trọn, tôi bị loại ra ngoài
khả năng phục vụ cho ngài, tại v́ chính tôi
cũng bị lên cơn sốt nghiệt ngă trước
ngài nữa. Lúc tôi vẫn c̣n bị sốt th́ cơn sốt
đột nhiên rời khỏi ngài nhờ một
đặc ân phi thường của Trời Cao. Sau khi
nghỉ ngơi hai ngày trời, ngài nghĩ rằng ngài
đă khỏi và ngài buộc một người cấp
tốc đi rút lời kêu gọi những người mà
tôi viết giấy mời tới. Nhưng người
đi nhắn tin này vừa chớm lên đường th́
ngài lại rơi vào cơn sốt c̣n dai dẵng hơn
trước. Ngài mất hẳn sức lực.
Phần tôi, dù tôi
thấy cơn bệnh của ngài tồi tệ đi
từng ngày từng ngày, tôi vẫn luôn tin tưởng vào
Thiên Chúa. Tôi không thể tin rằng Đấng Quan Pḥng
lại muốn cất khỏi chúng tôi một vị giám mục
rất đỗi cần thiết như vậy ngay vào
giữa lúc sứ vụ truyền giáo của ngài, và vào lúc
sắp sửa gặt hái những hoa quả tốt
đẹp nhất mà chúng tôi kỳ vọng nơi cuộc
thăm viếng của ngài.
Tuy nhiên, để
tránh chuyện không ngờ được, tôi đứng
dậy cho dù vẫn c̣n sốt, và tôi đến thưa
với Đức cha Bêrytê rằng để tránh tất
cả mọi tai nạn, không phải là vô ích khi gửi hai
lá thư bổ nhiệm linh mục tổng đại
diện theo như năng quyền Ṭa Thánh đă ban.
Đức cha Bêrytê vui nhận đề nghị của tôi
và tuyên bố với tôi rằng ư hướng của ngài là
chỉ lập một tổng đại diện cho toàn
vương quốc, rằng các cha Guyart và Mahot kế
vị nhau trong trường hợp tử vong. Ngài kư tên vào
thư và người ta gửi thư đi.
Mấy ngày sau
đó, cảm thấy rất đau đớn, ngài bảo
tôi rằng ngài chỉ c̣n nghĩ tới cái chết trong
sự kết hiệp mật thiết nhất có thể
với Chúa. Thỉnh thoảng tôi lại nghe ngài nói khi
cơn đau nổi lên và trong sức mỏi ṃn :
« Can đảm, giờ đến
gần, hăy chịu đau đớn, bởi v́ Thiên Chúa
truyền dạy, bao lâu mà Đấng Thánh
Một tâm hồn
thánh thiện.
Và v́ ngài không nghĩ
rằng c̣n có thể phục hồi được
nữa, ngài giục tôi hăy ban những bí tích sau cùng cho ngài.
Ngài nói với tôi rằng tôi để ḿnh bị bất
ngờ, rằng ngài có thể bị mất trí đi trong
chốc lát sắp tới vào lúc mà tôi không nghĩ tới.
Ngài tha thiết ước muốn chịu phép xức dầu
kẻ liệt, trước khi rơi vào t́nh trạng mà
người ta chỉ c̣n hưởng nhận
được một cách nửa chừng, tạm nói
như thế, những phương dược của Giáo
Hội. Tôi chần chừ kéo dài thêm ba hay bốn ngày
nữa. Nhưng sau cùng, phải cho ngài được
vừa ư ngài xin, ngài măn nguyện bao nhiêu th́ tôi đau
đớn bấy nhiêu trước t́nh trạng của
ngài.
Nếu người
ta có thể suy xét t́nh trạng bên trong của một linh
hồn qua những biểu hiệu bên ngoài, th́ khó mà
thấy một người sắp chết nào mà chuẩn bị
vào trận chiến cuối cùng một cách thánh thiện
hơn. Tôi khao khát ước muốn thâm nhập vào
được sâu tâm hồn ngài để xem thấy
tất cả những sinh động nơi đó.
Nhưng để ḱm hăm ước muốn của tôi
lại, tôi nghĩ rằng chỉ có duy nhất một Thiên Chúa mới thấy
tỏ tường trong cung đền thánh đó thôi. C̣n tôi
th́ chỉ cho tôi được thấy thỉnh thoảng
trên lưỡi ngài và trên đôi mắt của ngài vài tia
lửa đang thiêu đốt bên trong nội tâm của
ngài.
Tôi rất buồn
và rất chán nản, nhưng lại cảm được
một sự an ủi lớn khi tôi thấy ngài đầy
tin tưởng và trầm tĩnh giữa những nỗi
đau đớn. Ngài tràn đầy tin cậy nơi Thiên
Chúa, nóng cháy ao ước được sớm nh́n
thấy Thiên Chúa nơi Thiên Đàng, nhưng ngài cũng đặt
ḿnh vâng theo mệnh lệnh của Thiên Chúa cho sống hay
cho chết. Ngài cố gắng nói lên thường xuyên
những lời nồng cháy của Đa Vít rằng : « Misericordias Domini in aeternum
cantabo ». Đến muôn đời con ca vang t́nh
thương Chúa ! Do đó thật dễ hiểu khi
thấy t́nh thương Chúa cuốn hút ngài không ngơi
nghỉ, và ḷng nhân từ của Chúa lúc đó là nam châm thiêng
liêng lôi kéo toàn vẹn tâm hồn ngài với những dịu
dàng khôn tưởng.
Hai người
từ Hội An tới.
Ngài ở trong t́nh
trạng đó khi hai người, mà tôi đă viết
thư cho họ tại Hội An, đến nơi,
mười lăm ngày sau khi tôi yêu cầu. Thật là
một việc của Đấng Quan Pḥng là họ tới
bằng đường biển. Bởi v́ nếu họ
dùng đường bộ, chắc chắn họ đă
gặp người đưa tin thứ hai mang lệnh cho
họ đừng đến nữa.
Một trong hai
người có thể nâng đỡ thể xác bằng
nghiệp vụ của ông, đă khéo lo liệu mọi
phương thế để từ từ làm bớt
cơn nóng sốt của ngài xuống và sau cùng, đuổi
hẳn cơn sốt khỏi ngài vào ngày thứ 21, ngày mà
người ta lo ngại nhất.
Ngay từ những
dấu hiệu đầu tiên cho thấy ngài đang
bắt đầu khỏi bệnh, ông [thầy thuốc]
xin cáo từ bệnh nhân, với sự đồng ư
của bệnh nhân. Rồi để cha Guyart bên cạnh
ngài, ông ta trở về Hội An một ḿnh hầu
tiếp tục công việc của ông. Chúng tôi rất
cảm xúc khi ông ta ra đi, tại v́ Đức cha Bêrytê,
đối với chúng tôi, chưa hoàn toàn ra khỏi nguy
hiểm. Nhưng cha Guyart hiểu biết một chút về
thuốc thang, nhờ chuyên chú thực hành từ ít lâu nay và
chỉ vào xứ Đàng Trong dưới bộ áo của
người làm nghề thuốc, đă khích lệ chúng tôi
và cho chúng tôi hy vọng rằng nhờ sự săn sóc
nhỏ bé của chúng tôi với sự trợ giúp từ
Trời Cao, chúng tôi sẽ chữa lành được cho
bệnh nhân của chúng tôi.
Những ngày sau
đó.
Chúng tôi sáng chế
ra một thứ giường mà trên đó người ta có
thể thay đổi y phục và thay đổi thế
nằm cho ngài cách tiện lợi. Ngài cảm thấy
được nhẹ bớt đi rất nhiều. Lúc
ngài bắt đầu nghỉ ngơi được
nhiều hơn th́ ngài tự nhiên ăn ngon miệng hơn,
điều đó khiến tin được rằng chúng
tôi sẽ giúp ngài t́m lại sức khỏe trọn vẹn
trong ít ngày nữa, nếu như chính ngài muốn
được niềm vui t́m lại sức lực của
ngài. Nhưng ḷng hăng say của ngài lại đối
chọi với dự tính của chúng tôi, ngay từ lúc
đó ngài muốn nghĩ tới chuyện ra đi tiếp
tục việc thăm viếng của ngài. Ngài chắc
chắn rằng lên đường v́ phần rỗi
của đoàn chiên ngài th́ vị Hoàng Tử của các mục
tử sẽ lo cho ngài mạnh sức, và rằng thay
đổi không khí th́ sẽ tốt cho ngài hơn, rằng
cái mệt chừng mực trong chuyến đi th́ không
thể nào làm hại chi cho ngài được.
Ngoài ra, nếu ngài
c̣n chút hối tiếc đă qua một thời gian dài không
làm chi hữu dụng cho các giáo dân ở xứ mà ngài có
mặt, ngài lại được niềm vui biết rằng
cha Giuse, linh mục người Việt, đă không làm
việc luống công. Vị linh mục đức hạnh
đó đă rửa tội cho 72 người ngoại,
đă chuẩn bị cho nhiều người khác đón
nhận phép rửa tội vào một dịp khác. Ngài đă
ban các bí tích sám hối và thánh thể cho rất nhiều tín
hữu từ xa đến t́m sự tươi mát đó
cho linh hồn họ.
Niềm an ủi cho
Đức cha Bêrytê đó c̣n kèm theo một niềm an ủi
khác khi ngài đọc những lá thư mà tất cả các giáo
đoàn (les Églises) trong vương quốc viết gửi
tới ngài, trong thời gian ngài bị bệnh, để
chia sẻ niềm vui với ngài đă tới
được vương quốc này b́nh an. Những
niềm vui ấy đến với ngài, mang chi đó
rất âu yếm dịu dàng, khiến cho vị giám mục
nhận thấy ḷng chân thật trong t́nh thương
của các giáo dân, và ḷng sốt mến trong niềm ao
ước của họ mong được hưởng
nhờ sự hiện diện của ngài.
Chương V
Tại xứ
Quảng Ngăi
Chuẩn bị lên
đường.
Phải thú nhận
rằng những người tông đồ sống theo
những nguyên tắc khác hẳn người thường.
Ai xét chuyến đi mà Đức cha Bêrytê muốn thực
hiện theo những quy luật của tính cẩn thận
b́nh thường, th́ chắc chắn sẽ kết án
chuyến đi này là liều lĩnh. Ngài vẫn c̣n rất
yếu đến độ đi trong pḥng thôi vẫn
phải vịn vào người khác. Hơn nữa, không
thể nào đi đường biển được. Dù
ngài có uy tín và dù ngài có hứa phần thưởng, ngài cũng
chẳng t́m ra con thuyền nào hay người nào muốn
đưa ngài đi, v́ là mùa nghịch và v́ gió ngược.
Sau nữa, hiển nhiên là chúng tôi không thể dùng
đường bộ mà không gặp nguy hiểm bị khám
phá ra trong một vương quốc mà điều tối
quan hệ là phải sống luôn luôn ẩn kín. Bởi v́,
sau hết, phải dùng phương tiện nào để
cùng nhóm tùy tùng đi ngang qua những phần đất
của nhiều vị quan lại đây ? Các ông quan này,
do hiếu kỳ và do nhiệm vụ, c̣n phải canh
chừng các hành khách. Làm sao để tránh không bị
nhận diện và bị bắt giữ tại nơi nào
đó theo lệnh của ai đấy trong các vị quan
lại ?
Tất cả
những khó khăn trên có thể làm lay chuyển
người nào khác hơn là Đức cha Bêrytê. Nhưng
ngài luôn luôn kiên vững theo quyết định của ngài.
Đó là sử dụng tất cả mọi giải pháp có
thể nghĩ ra được để đi tới
xứ Quảng Ngăi sớm nhất có thể hầu thăm
viếng các nhà thờ tại đây. Sau khi bàn luận
mọi sự, ngài xét là phải bỏ đường
biển và dùng đường bộ. Để che dấu
chúng tôi đang lúc đi đường dưới
dạng khách đi buôn, chúng tôi để cha Guyart ở
đầu đoàn. Cha đă rời Hội An với sự
đồng ư của ông khu trưởng khu phố, cha có
thể đi ngang khắp vương quốc mà không sợ
ǵ.
Đường đến
Quảng Ngăi.
Một ông
người Pháp đă đi trước chúng tôi mấy
ngày, ông này cũng đă tạo dễ dàng đường
đi cho chúng tôi. Bởi v́ người ta được
tin từ ông là có một chuyến tàu Pháp ở Hội An, và
mấy người trong nhóm họ, đến thành phố
đó trên chuyến tàu, đă rời tàu đi lo việc buôn
bán, và những người này nay mai sẽ trở lại.
Do vậy, xem ra chúng tôi được dễ dàng đi ngang
khắp chốn mà không sợ nguy hiểm nhờ tin
đồn ấy đă lan rộng khắp nơi.
Ngày khởi hành là
ngày lễ Các Thánh, Đức cha Bêrytê đă dâng lễ ngày
hôm đó. Dù c̣n yếu, ngài đă can đảm rửa
tội 18 người lớn và thêm sức hơn 200
người mà phần đông đă chịu lễ từ
tay ngài. Sau đó, tất cả chúng tôi đều phó ḿnh cho
Chúa, vị giám mục vào vơng che mà chúng tôi đă chuẩn
bị cho ngài, cha Guyart và tôi lên lưng ngựa.
Chúng tôi là quăng 60
người và phải đi ngang qua nhiều làng mạc
đầy lính tráng. Do đó, gần như không thể nào
mà người ta lại không chận hỏi chúng tôi ở
một nơi nào đó. Tuy nhiên, nhờ một sự che
chở đặc biệt của Thiên Chúa, chúng tôi chẳng
gặp một ai muốn hỏi rơ chúng tôi là ai, chúng tôi
từ đâu tới và chúng tôi đi đâu. Sự thực
là người ta có hỏi chúng tôi rằng người
đang được khiêng đi đó là ai, chúng tôi
trả lời rằng đó là ông chủ của chúng tôi, và
người ta không hỏi thêm nữa. C̣n tất cả
những câu hỏi khác của người ta, người
ta bằng ḷng với những câu trả lời đầu
tiên của chúng tôi. Họ không muốn t́m ṭi thêm và không có ṭ
ṃ khám xét hành trang chúng tôi, cho dù lính tráng xứ này th́ xấc
xược và quan lại th́ keo kiệt. Lính và quan có thể
dễ dàng lợi dụng chúng tôi, hoặc lúc ban ngày nơi
chúng tôi đi ngang, hoặc lúc ban tối tại những nhà
trọ nơi chúng tôi nghỉ ngơi. Những nhà trọ
này không ǵ khác hơn là những ngôi nhà xây rải rác dọc
đường để cho hành khách tạm trú, không có ai
tiếp đón và không có ai cung cấp đồ ăn
uống chi cả.
Quảng Ngăi
tiếp đón Đức cha.
Trên đường
đi, chúng tôi gặp một số khá đông những
người có đạo. Họ rất muốn giữ
chúng tôi lại gần như ở khắp mọi nơi để
được chịu các bí tích. Nhưng chúng tôi tiếc
rằng không thể làm vừa ư mọi người
được, tại v́ chúng tôi phải đến nơi
trước những cơn mưa. Mùa mưa th́ đă
cận kề và mưa dầm dề có thể làm ngưng
chuyến đi lại, hoặc gây chậm trễ rất
nhiều cho chúng tôi.
Bởi thế, sau 8
ngày trời đi bộ từ lúc khởi hành tại
Nước Mặn, chúng tôi vào xứ Quảng Ngăi, trong
niềm hoan hỉ của toàn dân có đạo. Những
bậc vị vọng của họ, năm 1670, đă viết
thư với những lời lẽ rất mạnh và
rất cảm động, sau khi các cha Hainques và Brindeau qua
đời, để mời Đức cha Bêrytê đích
thân đến trợ giúp họ.
Trước đây,
họ đă mau chóng gửi con thuyền sang Xiêm La
để đón ngài. Bây giờ, họ vui sướng nh́n
thấy ngài trong xứ của họ, sau khi ngài đă
trải qua biết bao nhiêu là hiểm nguy và chịu
đựng biết bao nhiêu là khó nhọc v́ ḷng quư mến
họ. Họ vẫn c̣n nhớ tất cả những ǵ
cha Hainques và cha Brindeau, những vị mục tử rất
yêu dấu của họ, đă nhiều lần nói với
họ về phẩm chức giám mục và về những
đức hạnh cá nhân của ngài. Trong kỷ niệm
đó, ḥa lẫn giữa niềm vui và nỗi buồn,
nước mắt dàn dụa, họ không thể nào
biết tiếp đón cho trọn một người cha
cao cả và bác ái đă đến ủi an họ trong
nỗi mất mát và sửa chữa lại những đổ
vỡ.
Quảng Ngăi.
Niềm an ủi
đôi bên cùng ḥa lẫn. Chúng tôi thấy ḷng rất
nhiệt thành và rất thực tâm nơi những bổn
đạo mới này. Chúng tôi chắc sẽ tự
nguyện vui ḷng sống suốt những ngày c̣n lại
của đời ḿnh với họ, nếu như mệnh
lệnh của Thiên Chúa không buộc chúng tôi phải chia
sẻ với thời gian giữa tất cả những giáo
đoàn (les Églises) khác của Đàng Trong. Tôi không biết
tại sao giáo đoàn ở xứ Quảng Ngăi lại có nét
thu hút rất đặc biệt đối với chúng tôi
mà chúng tôi không thể diễn tả ra được.
Các tín hữu
tạo thành giáo đoàn này th́ sống rải rác ở
nhiều nơi. Họ tụ họp lại vào các ngày chúa
nhật và các ngày lễ tại ba giáo xứ khác nhau. Một
giáo xứ là giáo xứ Đức Bà tại An Chỉ ;
giáo xứ khác là giáo xứ Thánh Gia tại Bào Tây ; ba là
nhà ở của một thầy giảng tại
Quả thực, giáo
đoàn (chrétienté) này thật xinh đẹp lúc khai sinh
đến độ người ta có thể nói về giáo
đoàn này như một hiền triết thời xưa
đă nói về nhân đức : nếu nhân đức
có thể hiện rơ ra trung thực trước mắt
người ta, th́ chẳng một ai có thể từ
chối mà lại chẳng yêu mến. Nhưng tiếc
thay ! Bởi nhân đức ít người biết
đến, nên chẳng mấy người theo nhân
đức. Cũng một lẽ đó, chắc sẽ
chỉ có ít người là để ḿnh bị quyến
rũ bởi cái đẹp của giáo đoàn (l’Église)
mới mẻ này ; hơn nữa, họ chỉ thấy
được từ xa và họ chỉ biết
được cách mờ ảo.
Phần chúng tôi là
những người được diễm phúc thấy
giáo đoàn này thật gần, tất cả chúng tôi
đều bị quyến rũ. Ở đây, người
ta vẫn giữ ḷng yêu thương và sự kính phục
tuyệt đẹp đối với nhân đức và công
việc của các cha Hainques và Brindeau. Ḷng tưởng nhớ
các ngài được ghi sâu nơi các tâm trí, không bao giờ
có thể xóa mờ. Người ta chỉ nói tới các ngài
với những tiếng khóc nức nở và những
lời kính phục đến độ tôn thờ, khi
người ta nhớ lại những ân lành lạ
thường mà Thiên Chúa đă đổ xuống trên
những công việc của các ngài giữa những
cuộc bách hại. Thực sự là gần như luôn luôn
bị xô đẩy bởi phong ba băo táp suốt
mười năm trường (mà cha Brindeau đă trải
qua 2 năm cuối với cha Hainques), các ngài đă tăng
một nửa số giáo hữu. Con số hiện giờ
là từ 25.000 đến 30.000, theo ước tính mà
Đức cha Bêrytê đă cho thực hiện tại chỗ
với những người có kinh nghiệm và đáng tin
tưởng.
Chương VI
Lập ḍng Mến
Thánh Giá
Tin đồn bách
đạo.
Các linh mục
người Việt đă rất lo sợ cuộc bách
đạo lại tái diễn sau khi cha Hainques và cha Brindeau
qua đời. Bởi v́ cha này chỉ sống sót sau cha kia
được 3 tuần lễ, các ngài đă không có giờ
mà lo liệu cho Giáo Hội của họ có các thừa sai
khác hầu nâng đỡ họ trong cơn băo tố. Nhưng
Thiên Chúa đă thương xót sự lo sợ chính đáng
của các linh mục ấy và Ngài đă muốn nhận
lời cầu nguyện tha thiết của họ dâng lên
Ngài trên bàn thánh. Ngài ban cho các giáo hữu được
sống trong b́nh an trọn vẹn cho tới lúc Đức
cha Bêrytê đến nơi để khích lệ họ trong
cơn chiến đấu.
Quả thế, lúc
vị giám mục này ở xứ Quảng Ngăi, có tiếng
đồn lan khắp nơi rằng người ta lại
bắt đầu bách bớ đạo trong xứ Ca Chàm.
Mỗi ngày người ta lại nhận được
những t́nh tiết mới về chuyện bách bớ.
Kẻ này nói rằng người ta bắt lẫn lộn
đủ hạng giáo dân trong xứ đó, người ta
đánh đập họ tàn nhẫn, và người ta c̣n
thấy mấy người bị chặt các ngón tay
nữa. Kẻ khác thêm rằng đă có lệnh trên
truyền xuống t́m kiếm những giáo hữu trong
xứ chúng tôi đang ở nữa, và người ta đang
chờ ngày lễ trọng nào đó để bắt
được nhiều người nhất trong những
buổi họp cầu kinh. Có kẻ c̣n cố thuyết
phục chúng tôi tin rằng ở triều đ́nh, người
ta biết rất rơ là có một giám mục và mấy giáo
sĩ đến đây nữa.
Có lễ vật
cho vua không ?
Rồi vào một
ngày nọ, có một người đàn ông đến xưng
ḿnh là gia nhân của một vị quan đại thần. Ông
ta nói nhiệm vụ của vị quan đó là tiếp
nhận các quà biếu của tất cả các người
ngoại quốc trước khi được dâng lên nhà
vua. Ông ta, sau khi chào kính Đức cha Bêrytê thay mặt quan
chủ nhân của ông, tuyên bố với ngài rằng ông ta
đến lấy những món quà mà ngài mang theo, thừa
lệnh mà ông ta đă nhận. Và ông ta tŕnh ra giấy lệnh
đúng mẫu mực, có chữ kư và có con dấu ấn.
Có thể
người đàn ông này đă đi tới gặp
Đức cha Bêrytê do lệnh của hai mệnh phụ có
đạo tại triều đ́nh hơn là do lệnh
của vị quan đại thần. Bởi v́, một
vị quan khác là người có đạo nói với cha
Guyart rằng chính người đàn ông này, khi biết có
một vị đại diện tông ṭa đến trong
xứ Phủ Mới, đă mang tin tới triều đ́nh
và tới hai người chị em của hoàng hậu. Hai
mệnh phụ này đă trở lại đạo,
quyết định viết thư nhờ người
đàn ông này đem tới vị giám mục xem ngài có mang
theo quà cáp biếu nhà vua không, để c̣n lo toan chuyện
tiếp kiến vua được dễ dàng. Hai bà góp ư
rằng nếu ngài không có ǵ dâng nhà vua, th́ ngài nên giữ bí
mật nhất có thể việc ngài tới đây.
T́m giải pháp.
Bởi vậy ngài
quyết định ẩn ḿnh đi một ít lâu và cấm
không cho tín hữu đến từng đoàn lũ như
thói quen của họ nữa. Nhưng ḷng sốt mến
của tín hữu đă làm ngài vượt lên trên nỗi lo
ngại, ít nữa là đối với quần chúng b́nh dân.
Bởi v́ đối với những kẻ vị vọng
hơn, trong t́nh cảnh này, chúng tôi cảm nghiệm rơ
rằng địa vị xă hội và của cải
khiến họ đâm ra nhút nhát trong lúc những kẻ khác,
thay v́ mất can đảm đi, th́ lại cảm
thấy kiên cường hơn nữa vào những dịp
tương tự.
Những
người giầu có th́ cứ run lên sợ hăi
người ta tới bắt chúng tôi, và sợ chúng tôi
bị bắt th́ họ sẽ bị mất của
cải. Người nghèo th́ ngược lại, thay v́ lo
sợ, lại tỏ ra một niềm vui và một
niềm kiên vững khó diễn tả được. Ngày
hôm trước đó họ c̣n tin rằng họ sẽ dâng
cho Thiên Chúa những dấu chứng trung thành bằng cái
chết can đảm. Và họ chẳng có một đam mê
vui thú hay đam mê lợi lộc nào là cái thường hay
gắn chặt con tim những người sung túc trần
gian này vào hạ giới. Họ từ khắp nơi kéo
tới, ngày và đêm, bất chấp lệnh ngăn
cấm. Nhà thờ xứ Bào Tây nơi chúng tôi ở, gần
như lúc nào cũng đầy người. V́ đám
đông này, thay v́ thêm gương sáng và khích lệ những
bậc vị vọng, lại làm họ thêm lo sợ.
Đức cha Bêrytê để nhún nhường trước
sự yếu đuối của họ, đă quyết
định rút lui ẩn ḿnh đi cách đó một dặm
đường, vào nhà một bà góa tên gọi là bà Lucia. Bà
này là cô ruột của người mà chúng tôi đă trú
ngụ.
Những tín
hữu can đảm.
Ông chủ nhà bác ái
và bà vợ ông có đức tin mạnh mẽ nên cả hai
người hay than thở khi thấy những bậc
vị vọng giữa các người đồng
hương của họ nhát sợ như thế và khi
thấy người ta, sau khi chúng tôi đi khỏi, ép
họ phải cẩn thận canh pḥng những quấy phá
đang đe dọa. Tính khí họ rất dễ chịu.
Họ luôn trả lời rằng họ chẳng có chi
để thu quén dọn dẹp, họ thấy
được sung sướng khi xưng ḿnh có
đạo, và họ sẽ sẵn ḷng cho đi các tài
sản và mạng sống của họ mà làm chứng cho
Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô. Thái độ thanh thoát này,
thật cao cả trên môi miệng họ lúc đó, đă
tỏ ra rất thành tâm trong thực tế. Và v́ họ
cảm thấy bực bội khi cuộc bách đạo
không làm họ bị tước sạch của cải,
họ tự ư từ bỏ bằng cách trao đặt
hết vào tay chúng tôi để sử dụng cho Giáo
Hội. Và v́ không thể dâng hiến đời họ cho
t́nh yêu Đấng Cứu Thế yêu dấu của họ,
họ cho chúng tôi đứa con trai duy nhất mà họ yêu
thương c̣n hơn cả chính họ nữa, để
ngày nào đó cậu ta sẽ phục vụ bàn thờ Thiên
Chúa, nếu với thời gian người ta xét cậu có
thể thành một tông đồ Phúc Âm.
Gương sáng
đức khó nghèo tự nguyện mà họ thực hành
sẽ sớm được bắt chước theo
bởi chính người mẹ của họ, bà sống
chung với họ, và bởi bà Lucia là cô của họ. Nhà
của bà Lucia làm chỗ ẩn náu cho chúng tôi sau khi chúng tôi đă
rời khỏi nhà của họ. Giáo dân th́ lần theo
dấu vết chúng tôi, kéo đến đấy từng
đoàn lũ t́m chúng tôi. Trong thời gian 5 tuần lễ
chúng tôi ở đó, họ tụ họp lại mỗi ngày
để lănh nhận các bí tích, rất b́nh thản như
thể chẳng có chi phải lo sợ. Bà chủ nhà
giầu ḷng bác ái của chúng tôi mở rộng cửa cho
tất cả mọi người với ḷng nhiệt thành
quả cảm.
Tiếp đón các
trinh nữ.
Đức cha Bêrytê,
theo kinh nghiệm, tin rằng bà quả phụ ấy là
người đức hạnh và khôn ngoan, đă phán
bảo cho bà hay dự kiến của ngài là quy tụ chung lại
vài thiếu nữ có ḷng ao ước giữ ḿnh
đồng trinh. Các thiếu nữ ấy đă cho viết
đến ngài ở Xiêm La, mấy năm trước, qua
cha Hainques, ư định của họ, theo đó họ
đă khám phá ra niềm vui được tận hiến
cho Thiên Chúa một cách trọn hảo nhất.
Dù phân tán trong
nhiều làng mạc, các thiếu nữ ấy đă tụ
họp lại, mà chẳng khó nhọc ǵ, để
đến gặp gỡ Đức cha Bêrytê vào ngày mà ngài
quy định trước cho họ. Đức cha nói
với họ rằng ngài muốn bàn luận với họ
việc thực thi ư định của họ và ngài đă
cho họ một huấn từ nhỏ về đời
sống tinh thần. Sau đó, các chị em đă
đến theo ngày đă đề xướng, tại
nơi đă đồng t́nh chọn lựa, cùng với hai
bà quả phụ đă rất lớn tuổi. Và sau khi lănh
nhận các bí tích sám hối, thêm sức và thánh thể,
họ cho biết khá rơ tâm hồn sẵn sàng của họ
hầu cho thấy rằng ơn gọi của họ
thật thiêng liêng.
Ngay khi xuất
hiện trước ngài, các chị em quỳ rạp trên
mặt đất để chào kính và nức nở khóc lóc
v́ vui mừng. Tiếp đó, giang đôi tay và ngước
mắt lên trời, các chị em
cảm đội ơn Thiên Chúa cuối cùng đă
gửi đến cho họ cách kỳ diệu một con
người đă đến giải thoát họ khỏi
mọi cạm bẫy thế gian và dạy họ nghệ
thuật dâng ḿnh cho Thiên Chúa. Sau hết, họ phủ
phục mà tỏ ra thỏa măn trọn vẹn cho ḷng
ước ao của họ, và rằng họ vui mừng khi
được đưa ra khỏi thế trần này và
nhà cha mẹ của họ hầu sống trong sự thanh
tịnh và trong sự trọn lành Phúc Âm.
Đức cha Bêrytê
hỏi lư do nào đă đưa họ đến ḷng
ước ao cách sống này, và đồng thời ngài
đặt tất cả mọi câu hỏi mà ngài thấy là
cần thiết để đo lường ḷng dạ các
chị em, cùng để nhận biết ư Chúa trên họ.
Họ trả lời tất cả mọi sự với
một ḷng thanh bạch và khiêm nhượng đến
nỗi tất cả những ai đang hiện diện
tại đó đều, một phần th́ ngây ngất v́
cách thức hành động của họ, một phần
th́ hoàn toàn chân nhận rằng tâm hồn họ đă
được dự pḥng bằng sức mạnh ân
sủng Chúa.
Vào lúc đó, chúng tôi
ngập ch́m trong một ấn tượng sâu sắc mà các
chị em ấy tạo nên đến độ tôi không c̣n
biết đến bao giờ sẽ có một sự ǵ
khiến chúng tôi thiết tha với sự trọn lành riêng
của chúng tôi một cách dịu dàng và nồng nhiệt
hơn thế nữa. Bởi v́ những lời thần
thiêng đó mà chúng tôi nghe được đă đưa
tinh thần lên cao hơn cả chính ḿnh và cho nếm vị
ngọt ngào khó diễn tả được về Thiên
Chúa, thoát khỏi cái t́nh ư nơi mọi sự trần
giới này.
Đó là những
mối hoan lạc tinh thuần và thánh thiện mà đôi khi
Đấng Cứu Chuộc trần gian đă ban cho
những kẻ làm việc tông đồ được hưởng
nếm. Lúc đó, Ngài vui ḷng cho họ khám phá ra những
đường lối mà những kẻ Ngài kén chọn
đang được sự khôn ngoan cùng ḷng từ bi Ngài
dẫn dắt. Ngài cho họ thấu hiểu rằng đó
là kết quả mà Ngài ban cho họ như hoa trái riêng
nơi những tâm hồn cao cả nhất về sự
khiêm nhu, thờ kính, tri ân và t́nh ái thiêng liêng. Ḷng sốt
mến của những tâm hồn ấy c̣n khiến
cảm nhận được cả ra bề ngoài nữa.
Dù ǵ đi nữa, sau
một bài giảng dạy dài giờ, Đức cha Bêrytê
đă thán phục mà nh́n nhận sự cao sang cùng sự
đồng tâm nhất ư sẵn sàng của các nữ
đồng trinh đầu tiên xứ Đàng Trong này. Ngài
phán với họ rằng nếu chỉ chiếu theo duy
nhất một sự cẩn thận theo tính con
người, th́ ngài không thấy có thể thỏa măn
nguyện vọng thánh thiện của các chị em. Và
bởi thế, phải cần đến những phương
thế siêu nhiên, bằng cách tăng gấp đôi
việc cầu nguyện,
việc siêng năng chịu các phép bí tích và việc xem
lễ thật nhiều hơn nữa. Ngài truyền cho
họ làm tuần cửu nhật kính Đức Trinh Nữ
và Thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ và là quan thày
của họ.
Lập nhà ḍng
Mến Thánh Giá.
Trước khi
những ngày trên qua đi, ngài đă được
cảm thấy một cách
mạnh mẽ rằng hăy đưa họ ra khỏi nhà cha
mẹ họ mà cho họ sống chung với nhau. Nỗi
khó khăn là t́m được một nơi an toàn
để họ c̣n giữ ḿnh khỏi chuyện
cưới gả, ngược lại với tập quán
xứ sở họ, mà không bị kẻ ngoại
đạo khám phá ra. Và cũng là nơi họ sống theo
sự hướng dẫn của một phụ nữ có
đạo, mà khôn ngoan cùng đức hạnh, có uy tín che
chở họ tránh mọi phiền hà có thể xẩy
đến cho họ sau này.
V́ bà Lucia có mọi
phẩm tính trên, Đức cha Bêrytê đă hỏi bà xem bà có bằng
ḷng tiếp nhận nơi nhà bà và dưới sự che
chở của bà những thiếu nữ trẻ đă
đến tŕnh diện với ngài chăng. Bà ta xin ngài cho
hai ngày để suy nghĩ về điều ấy.
Hết thời
hạn, bà ta thưa với ngài rằng ngài có thể sử
dụng tất cả những ǵ thuộc về bà,
rằng bà vui ḷng dâng cúng ngôi nhà cùng mảnh đất
của bà để tiếp trú những nữ tỳ Chúa
Giêsu Kitô và dâng hiến của cải bà mà nuôi dưỡng
họ, rằng bà ước ao được sống và
chết cùng với họ, miễn sao trong sự thực
thi đức vâng lời.
Chúng tôi nhận
đồ biếu và sự dâng hiến của bà, không
lưu tâm đến những điều ngoại lệ mà
ḷng nhún nhường của bà đă thêm vào.
Trước tiên,
chúng tôi gửi đến bà 5 thiếu nữ mà theo họ
sau đó là 5 thiếu nữ khác nữa. Giữa các thiếu
nữ trên, có một chị có thể hướng dẫn
tất cả những chị
Và nếu những
kẻ sẽ đến với họ trong tương lai
cũng đầy công nghiệp như những chị em mà
chúng tôi đă biết th́ ngôi nhà của họ chắc
chắn sẽ là một ngôi nhà được chúc phúc, là
nơi mà Thiên Chúa sẽ được tôn vinh không kém chi
nơi những tu viện kỷ luật nhất tại Âu
châu. Bởi chưng, chị em cầu nguyện nhiều,
ăn ít, làm việc mọi giờ giấc mà họ không
bận trong kinh nguyện và việc hăm ḿnh ép xác. Họ có
một chị bề trên mà họ yêu mến và hoàn toàn tôn
kính. Họ tuân thủ thật chính xác những quy luật
nhỏ mọn nhất đă được ban cho họ.
Họ có một ḷng tin tưởng và vâng phục trọn
hảo nơi vị linh hướng của họ.
Tóm lại một
lời, trong mọi sự, họ chẳng chịu thua
những nữ tu nhiệt thành nhất nơi những ḍng
tu đă được canh tân hơn hết. Chúng tôi hy
vọng rằng những ḍng nước mắt các chị
em đổ ra ṛng ră ngày đêm, khi họ với ḷng
nhiệt thành nguyện ngắm van xin Thiên Chúa ơn trở
lại cho toàn vương quốc, sẽ đón nhận
được các ân huệ cần thiết của Ngài
hầu hoàn thành một công tŕnh rất đỗi to lớn
thể ấy.
Hương thơm
nhân đức của các chị em đă kéo đến
với họ một phụ nữ trẻ, tuổi 25, mà
chồng cô ta đă bỏ cô ta từ hồi cô mới 16
tuổi. Cô ta tự thấy ḿnh không xứng đáng
được nhận vào với các nữ tỳ của
Chúa Giêsu Kitô, đă xin các thừa sai thương cho
được cất một cḥi lá bên cạnh nhà ḍng,
hầu có thể bắt chước các chị em ít nữa
là một phần nào đó, theo sức ḿnh. Chúng tôi đă
bằng ḷng chấp thuận lời xin của cô ta, hơn
nữa, chúng tôi hay biết là cách đây đă 3 năm, cô ta
đă được cha Hainques rửa
tội, và cô ta đă nghe lời khuyên của ngài mà từ
bỏ mọi hăo vọng trần thế này.
Mười
chủng sinh Quảng Ngăi.
Người ta trao
phó cho chúng tôi việc dạy dỗ 10 chú học tṛ trẻ
tuổi mà chúng tôi sẽ đem qua chủng viện Xiêm La với
một ông thầy già. Ông này sẽ dạy các chú chữ
nghĩa bản xứ của các chú. Chú lớn tuổi
nhất chưa quá 18. Các chú rất dễ thương
đến nỗi ḷng tôi rạo rực niềm vui
sướng khi viết về các chú. Xin tạ ơn Chúa
đến muôn đời đă ban cho lớp trẻ này ḷng
yêu mến sự hoàn thiện Kitô giáo vào một lứa
tuổi mà chơi bời và ham vui là tất cả những
bận tâm thường t́nh của bọn trẻ. Các chú
rất chuyên tâm vào việc học hành và cầu nguyện
đến nỗi chúng tôi không thể đ̣i hỏi một
sự trung thành nào lớn hơn nữa trong việc
thực tập tu đức của các tập sinh sốt
sắng nhất.
Chương VII
Chuyện bách
đạo
Từ một bà
vợ.
Chúng tôi gặp khá
nhiều khó khăn mới khám phá ra nguồn gốc đích
thực về những tiếng đồn bách đạo.
Đây là điều người ta kể ra.
Có một ông
người ngoại đă trở lại đạo. Ông ta
hết sức thúc đẩy bà vợ trở lại
đạo như ông. Ông c̣n dọa nạt bà ta là ông sẽ
bỏ bà, nếu bà không nghe lời xin của ông. Con mụ
đáng thương này, chẳng suy tính chi hơn, nổi
tam bành mụ lên. Theo cơn giận dỗi, mụ đi
gặp vị quan trấn thủ xứ Ca Chàm là nhân vật
quan trọng hàng thứ ba của đất nước.
Sau khi nộp đơn kêu trách ông chồng của mụ
rồi, mụ không tiếc lời bài xích cái giáo phái những
người Kitô hữu. Mụ nói rằng nếu
người ta không chữa trị sớm nhất có
thể, th́ mọi người sẽ theo cái đạo giáo
mới này hết, rằng bây giờ người ta
chẳng sợ ǵ khi tụ họp công khai mà đọc kinh
thờ kính Đức Chúa Trời, rằng người ta
tổ chức những buổi hội họp khắp
nơi rất đông đảo, coi thường các
lệnh truyền của nhà vua. Mụ ta nói thêm rằng
nếu người ta không xử lư cho mụ theo đơn
kiện của mụ, th́ mụ dứt khoát sẽ lên
tận triều đ́nh để xin xử án, mà ở
đó th́ chắc chắn là mụ sẽ không bị từ
chối.
Nhưng khi mụ
thấy người ta chẳng có nghe lời mụ cách tích
cực lắm, th́ mụ cảm thấy như bị châm
bị chích. Mụ tức tốc lên đường đi Sinoa
(Huế) nơi nhà vua thường ở, tuyên bố
rằng mụ sẽ không bỏ qua bất kỳ sự ǵ
để thành công ư đồ của mụ.
Bách đạo.
Mấy ngày sau
đó, vị quan trấn thủ (xứ Ca Chàm) suy nghĩ
rằng người ta có thể dễ dàng tâu chuyện lên
nhà vua, có thể có những kẻ sẽ làm môi giới trong
triều đ́nh, về ấn tượng do những
lời của mụ đàn bà đang điên giận này có
thể tạo ra, và biết đâu mụ ta lại
chẳng t́m được nơi tựa chống lại
bản thân ông. Do đó, v́ chính trị, ông quyết
định ngăn ngừa trước hậu quả
của sự vu khống, ông cho ngược đăi một
vài giáo hữu, phản bội lại danh dự và
lương tâm của ông v́ phần ích gia sản riêng. Ông
cho phép lính tráng của ông bắt bỏ tù tất cả
những ai rơi vào tay chúng. Cái hy vọng kiếm được
lợi lộc trong những chuyện bắt bớ
tương tự kích động chúng và chúng đă dễ
dàng bỏ tù 30 người, cả đàn ông, đàn bà và
trẻ con, suốt gần 30 ngày trời trong cảnh
rất khốn cùng.
Tuy nhiên, có tin là
mụ đàn bà đó đă không xin được phép vào
chầu vua. Và nhà vua bận việc chiến tranh chống
xứ Đàng Ngoài không những mới đây vừa
từ chối những khiếu nại khác chống
người có đạo, mà c̣n xé bỏ và chà đạp
dưới chân một vài đơn kiện tụng
của những kẻ thù chống đạo nữa. Ngay
khi vị quan trấn hay tin trên, ông truyền trả tự
do cho tất cả các kẻ bị cầm tù. Nhưng lính
tráng th́ lại không muốn vâng lời, chờ người
ta thỏa măn ḷng ham hố của chúng. Chúng biết
người ta cần chúng trong vương quốc này nên
đă t́m lợi lộc riêng tư tới độ
ngạo mạn. Thường rất hay xảy ra là các
cấp trên buộc ḷng phải nhắm mắt trước
hàng ngàn những quân phản nghịch nhỏ ở các
nơi khác, không hề trừng phạt họ. Do đó,
để vừa ḷng chúng, vị quan trấn đồng ư
cho chúng rút tỉa nơi những tù nhân tất cả
những ǵ chúng có thể rút tỉa được. Hơn
nữa, ông c̣n hứa với chúng sẽ phạt vạ nặng
những kẻ nào bị bắt với ảnh
tượng đạo thánh.
Một nhân
chứng đức tin.
Chúng đă không quên
sử dụng phép tắc mà người ta đă ban cho
chúng. Phần lớn những người bị tù ngục
xiềng xích đều bị đánh đ̣n và chỉ được
tha về nhờ tiền bạc đút lót. Có một
người trong các người khác tỏ ra ḷng nhiệt
thành cách rất đáng ca ngợi. Bởi v́, mặc dù
chỉ có ḿnh anh ta mới chuộc ḿnh ra như kẻ khác,
anh ta lại không muốn cho lính tráng thứ ǵ cả. Anh
luôn phản kháng rằng ở tù v́ Chúa Giêsu Kitô là một
vinh dự quá lớn, nên không thể giải quyết
bằng cách t́m phương tiện để ra khỏi tù.
Anh giáo hữu
quả cảm này là con trai của một người
đă chịu tử đạo. Anh tên là Michel. Khi anh bị
bắt, người ta đă t́m thấy trong giỏ
đồ của anh những cỗ tràng hạt, h́nh
đạo, ảnh đeo và sách đạo đức viết
bằng tiếng bản xứ. Người ta hỏi anh
làm ǵ với những thứ đó. Người ta bảo
anh phải từ bỏ dứt khoát những thứ đó
đi, và nếu anh ta không chịu làm thế, người
ta sẽ chặt đầu anh. Nhưng thay v́ sợ hăi, anh
hiên ngang trả lời rằng món đồ nhỏ mà
người ta đă bắt được đó là
phần di sản duy nhất và quư giá mà thân phụ của
anh đă để lại cho anh khi ông chịu chết v́
đức tin. Đối với anh, đó là phần
thừa tự quá giầu có nên anh không thể từ
chối được. Anh biết rơ giá trị di sản
đó. Anh nghĩ rằng không có kho tàng nào đủ quư báu
để mua di sản đó được, nếu anh
muốn bán. Anh cũng không nghĩ rằng có những tra
tấn nào đủ tàn nhẫn khiến anh thay đổi
tôn giáo, nếu người ta muốn cưỡng bức
anh. Phần c̣n lại, người ta sẽ làm anh rất
hài ḷng khi người ta thực hiện những lời
người ta đe dọa, đừng mong anh loại
bỏ khỏi con tim của anh những t́nh cảm mà ơn
thánh đă ghi sâu dấu vết trong đó. Tất cả
niềm vui của anh là được chịu đau
khổ và chịu chết như thân phụ của anh,
tại v́ cũng như thân phụ của anh, anh hy vọng
t́m thấy một cuộc sống bất tử ngay trong
chính cái chết.
Khổ h́nh.
Người ta
bắt bẻ anh rằng không phải nói dông dài, nhưng phải
xem cái gọi là ḷng quả cảm đó có vững cho
tới cùng chăng, rằng không như anh nghĩ đâu,
đừng tin là chỉ đưa đầu ra là xong, cái
khổ h́nh quá nhẹ nhàng, nhưng trước khi tới
chỗ ấy, anh phải sẵn sàng mà chịu những
khổ h́nh khác.
Trước
hết, người ta bắt đầu bằng h́nh
khổ đói và khát. Người ta để anh trọn
bốn ngày trời không cho ăn cho uống. Và để
tăng cái cực h́nh anh lên, người ta bầy ra ăn
uống ngon lành trước mặt anh. Lúc th́ người
ta bảo anh với vẻ đồng cảm rằng chính
anh là người quyết định nhập tiệc hay
không, anh chỉ cần nói một tiếng là sẽ không thiếu
thốn sự chi. Lúc th́ với những lời nguyền
rủa dữ tợn và những chế nhạo ác liệt,
người ta coi anh như kẻ điên và tàn nhẫn thích
tự sát hại chính ḿnh bởi tính ngoan cố dại
khùng, hơn là cứu lấy đời ḿnh bằng
những điều kiện mà một người khôn ngoan
hẳn sẽ chấp nhận.
Nhưng v́ anh đói
khát vô cùng ơn cứu độ vĩnh cửu của anh
hơn là sự giải thoát tạm thời, và khao khát
nguồn thác hoan lạc thiên quốc hơn tất cả
những rượu ngọt trần gian, chẳng sự ǵ
có thể lay chuyển anh được. Anh chống
trả lại tất cả những cám dỗ ấy
bằng thái độ khinh thường cuộc sống và
bằng ḷng ước ao nồng cháy vinh quang Thiên Đàng.
Anh để ḷng hướng về những sự ấy
hơn là bận tâm về những khổ ải anh đang
chịu.
Tha về.
Tuy nhiên, giáo dân
sợ cái kiên cường của anh lại làm người
ta thêm tàn ác nhiều hơn nữa. Họ quyên góp rộng
răi và đến trao cho anh, van xin anh hăy dùng đó để
thoát ra khỏi tay những kẻ bách hại anh. Nhưng anh
nhất định giữ vững quyết tâm anh hùng mà anh
đă theo. Anh nói :
« Không, không. Tôi sẽ không bao
giờ bằng ḷng cho người ta thả tôi ra theo
đường lối này. Quư vị có thể chia cho
những người nghèo số tiền mà quư vị trao
tặng cho tôi đây. C̣n về những ǵ liên quan đến
tôi, hăy để một ḿnh Thiên Chúa hành động. Tôi
ở đây là v́ lệnh của Ngài. Và nếu tôi ra, th́
cũng chỉ do lệnh của Ngài mà tôi phải ra. »
Lính tráng đă hành
hạ anh th́ sợ anh chết v́ cùng cực, tại v́ chúng
đă tự ư hành động, không có phép từ nhà vua, và có
thể c̣n ngoài ư muốn của vị quan trấn nữa.
Bởi thế, vài ngày hôm sau, chúng cho anh ta ăn một chút.
Thất vọng v́ không rút tỉa được ǵ nơi
anh, chúng bắt anh trả giá sự tự do bằng
một trận mưa đ̣n trên khắp thân thể anh,
một cách cực kỳ vô nhân đạo. Trong khi đó,
vị anh hùng cao cả cám tạ Thiên Chúa bằng trọn
tâm hồn ḿnh. Và người ta có thể nói rằng
nếu anh có chi đó không vui, th́ đó là anh thấy ḿnh
không bị nghiền nát dưới roi đ̣n, nhưng
đúng hơn, là đă không dâng hiến đến giọt
máu cuối cùng và không được chết đi trong
cơn khổ nạn.
Người ta có
thể thấy qua gương sáng này một khuôn mẫu
vinh hiển về ḷng dũng cảm của các
người Đàng Trong đă theo đạo. Và
người ta có thể qua đó xét thấy sức
mạnh của ân sủng trong Giáo Hội sơ sinh này. Thật
là một niềm an ủi cho chúng tôi được
thấy giữa chốn lương giáo này, ở tận
cùng thế giới, những kẻ có thể gần như
đi song song với những tâm hồn cao thượng
của Giáo Hội sơ khai. Chúng ta phải làm ǵ đây
để vun trồng mảnh đất mà người ta
đă thưởng nếm được những hoa trái tuyệt
diệu và người ta c̣n hy vọng sẽ gặt hái
được nhiều hoa trái khác nữa ?
Chương VIII
Tiếp tục
chuyến thăm viếng
Rời Quảng
Ngăi.
Ngày lễ Giáng Sinh
đến gần, các giáo dân nhà thờ B́nh Sơn (Bizung)
nơi mà thi hài của cha Hainques an nghỉ, đă cử các thầy
giảng và vài người trong các giáo hữu vị
vọng của họ đại diện đến
gặp Đức cha Bêrytê xin ngài tới cư ngụ
nơi họ vào dịp Lễ [Giáng Sinh] và thăm viếng
ngôi mộ của người đă hiến dâng đời
ḿnh để mở đường lên Trời cho họ.
Ngài đă không làm khó khăn ǵ khi ban một ân huệ mà chính
ngài đă quyết định như thế ngay
trước khi họ đến ngỏ lời xin với
ngài ; và ngài đă quy định với các vị đại
diện trên ngày người ta sẽ đến đón ngài
ra khỏi xứ Quảng Ngăi, xứ mà chúng tôi chỉ có
thể rời đi với nỗi buồn trong ḷng.
Các vị
đại diện nhận ra rơ t́nh cảm đặc
biệt của chúng tôi đối với xứ này nên
họ bắt đầu gọi xứ này là
Tất cả
mọi lư do trên xứng đáng để chúng tôi có một
ḷng quư mến riêng đối với xứ này. Và bởi v́
con số tín hữu nơi này rất đông, Đức cha
Bêrytê không nghĩ rằng chúng tôi phải bỏ mặc
họ vào thời gian rất thánh thiện này. Ngài chia sẻ
sự giúp đỡ của ngài, và để tôi ở
lại với họ hầu ban các bí tích cho tới ngày
Lễ Hiển Linh, trong khi đó ngài sẽ đi với
một linh mục người Đàng Trong đến B́nh
Sơn, nơi mà ngài đă hứa sẽ đến.
Vào ngày trước
hôm ngài lên đường, các giáo dân
B́nh Sơn.
Ngay buổi sáng, ngài
tiếp tục con đường thẳng tới B́nh
Sơn, nơi ngài rất được mong đợi.
Trong ṿng 10 ngày trời ngài ở đó, ngài đă ban cho tôi
được vinh dự nghe ngài kể tất cả
những ǵ xảy ra trong cuộc thăm viếng của
ngài qua nhiều lá thư. Suốt ngày suốt đêm, ngài
giảng dạy và ban các phép bí tích mà vẫn không thể
thỏa măn được phần nhỏ nhất của
giáo dân. Trước lúc trời sáng quăng hơn một
tiếng, ngài lên bàn thánh để tiếp theo đó là ban
phép thêm sức. Ngài xong việc th́ đă quá trưa. Ngài
rửa tội cho hơn 60 người lớn. Ngài giải
quyết nhiều đám hôn phối. Ngài thêm vào số các
thầy giảng một anh tân ṭng, tuổi là 20, mà khả năng
chữ nghĩa cũng ngang hàng với cái đẹp tự
nhiên nơi anh. Người thanh niên trẻ này tuyên bố
với Đức cha Bêrytê rằng nhờ đọc
một cuốn sách đạo đức do cha Hainques đă
soạn, mà anh quyết định giữ đời
sống độc thân và hiến thân trọn vẹn cho Chúa
để làm việc lo phần rỗi cho quê hương
của anh. Do vậy, Đức cha Bêrytê ban việc cho anh
và để thử việc, ngài sai anh hăy đem những
lời đầu tiên của Phúc Âm đến cho cha mẹ
anh, là những người cho tới lúc đó xem ra rất
gắn bó với việc thờ cúng ngẫu tượng.
Nhưng ơn Chúa đi kèm nơi những lời của
người con đó đă đánh động mạnh
mẽ cha mẹ anh. Họ hứa với anh sẽ trở
lại đạo trong ít tháng nữa, khi họ đă
học hiểu đầy đủ các mầu nhiệm
đức tin và các lề luật luân lư trong đạo.
Vào lúc ngài xúc
tiến như vậy các việc tôn giáo tại B́nh Sơn,
tôi cố gắng làm nhiệm vụ của tôi trong xứ
mà ngài đă để tôi ở lại. Ngay khi Đức
cha Bêrytê rời tôi ra đi, tôi gửi đến các nơi
khác nhau một ông thầy giảng sốt mến. Ông ta
dẫn đến cho tôi những gia đ́nh trọn vẹn
đầy đủ để tôi rửa tội. Nếu
tôi hoăn phép rửa tội lại đối với gia
đ́nh nào đó v́ họ chưa học hỏi đầy
đủ, th́ họ lại than thở và khóc lóc, v́ ḷng nhân
lành của Chúa đánh động con tim của họ.
Nhưng dù tôi có ư thích muốn ở lại nơi đó
để gặt hái lấy phần hoa quả c̣n đó mà
tôi có thể hứa hẹn cho chính ḿnh, tôi phải tuân theo
những chỉ thị mà ngài đă ra cho tôi. Và tôi đi
tới B́nh Sơn vào buổi chiều ngày Lễ Ba Vua
để gặp lại Đức cha Bêrytê và tiếp
tục với ngài chuyến đi cho tới Hội An.
Một làng dân chài.
Khi chúng tôi chỉ
c̣n hơn một ngày đi bộ và hai con sông phải qua
để tới nơi (Hội An), một lũ đàn bà đến
chận chúng tôi lại dọc đường. Các bà nài van
ép chúng tôi phải quẹo ngang đường vài dặm mà
đi tới ngôi làng của họ. Chúng tôi trải qua 3 ngày
nơi làng đó mà làm những phận vụ quan trọng
nhất thuộc thừa tác vụ của chúng tôi. Lại
c̣n phải để lại đó một ông thầy
giảng để ông chuẩn bị cho nhiều
lương dân chịu phép rửa tội. Phần đông
những người này là các dân ngư phủ nghèo khổ,
nhưng linh hồn của họ th́ cũng đáng quư
trước mặt Thiên Chúa như linh hồn các bậc
vương giả cao sang nhất. Và chúng tôi chợt
nhớ lại là chính từ những hạng người
như thế mà Đấng Cứu Thế đă lấy làm
những cột trụ đầu tiên cho Giáo Hội
của Ngài.
Hội An.
Sau lần
nhượng bộ đó, không c̣n ǵ có thể cản
đường chúng tôi nữa. Và sau cùng, chúng tôi tới
được Hội An vào ngày 15/01/1672, sau cha Guyart là 4
tháng rưỡi.
Cha đă có
đầy đủ thời giờ cần thiết
để kín đáo chuẩn bị tiếp đón chúng tôi.
Bởi v́ bến cảng này là bến cảng nổi
tiếng nhất Đàng Trong và người ta gặp ở
đây rất đông người thuộc đủ
mọi quốc gia, nên chúng tôi phải giữ ḿnh kín đáo
hơn ở bất kỳ thành phố nào trong vương
quốc. Người bạn chúng tôi, v́ lư do đó, đă cho
người tới gặp chúng tôi và cho chúng tôi biết
phải cập đến ở đầu một ḥn
đảo nhỏ, cách cảng độ một tầm
súng đại bác.
Chúng tôi gặp
lại ở đó người đang chờ đợi chúng
tôi. Cha ấy dẫn chúng tôi vào một túp lều nhỏ mà
cha đă cố ư cho dựng nên v́ chúng tôi. Túp lều là
một mớ thân cây ghép lại với nhau và
được nối dính lại bằng một thứ
vữa chẳng có giá trị ǵ. Cái túp lều đó nằm
bên cạnh túp lều của một giáo dân bản xứ.
Ông ta là hoa tiêu, biết tiếng la tinh và tiếng Bồ
Đào Nha. Ông ta đă dễ dàng làm quen với cha Guyart và ông
đă khuyên cha đến ở bên cạnh nhà ông.
Cái nghèo nàn của
căn nhà nhỏ này hiện ra nhất là ở cái mái,
tại v́ mái nhà chỉ là rơm lợp lên một cách
rất thô sơ, nhưng rất cần thiết để
chống mưa. Tuy nhiên, căn nhà lại có vẻ rất
dễ thương đối với Đức cha Bêrytê.
Chính v́ lư do đó mà tôi không nhớ đă có bao giờ
thấy ngài, vào một dịp nào khác, vui vẻ hơn
thế không. Lúc này, ngài cho thấy rơ cái tươi vui
hiện ra trên khuôn mặt của ngài và ngài nói hang đá Chúa
Giêsu Kitô th́ duyên dáng hơn tất cả các cung điện
vua chúa trần gian.
Chương IX
Tại Hội An
Giáo dân tuôn
đến.
Tất cả
những đề pḥng của chúng tôi để tránh cho
người ta biết chúng tôi tới đây th́ chẳng
mấy hiệu quả. Thiên hạ biết chuyện
chẳng chút khó khăn, và tin tức truyền đi
giữa các người có đạo, lan khắp các vùng lân
cận, thậm chí c̣n tới cả các chốn xa xôi
nhất. Ḷng tha thiết của các tín hữu muốn
gặp mặt vị giám mục của họ do Ṭa Thánh
gửi đến đă khiến họ vượt lên trên
tất cả những canh chừng cẩn thận. Dẫu
tất cả họ đều hiểu là rất cần
phải giữ kín đáo sự việc, họ cứ công
khai kéo đến thành từng đoàn từng lũ. Họ
t́m kiếm sự trợ giúp mà họ mong chờ từ bao
lâu nay. Họ không nghĩ tới những phiền phức
có thể xảy đến sau đó do một cuộc
tụ tập rất đông đảo và rất lộ
liễu như vậy.
Bất kỳ lúc
nào, chúng tôi cũng thấy có những con thuyền chở
đầy người cập vào đảo. Con thuyền
nào cũng muốn đón vị giám mục để
rước ngài đến những địa điểm
khác. Những người này th́ xin ngài tới xứ Ca Chàm
là nơi vị phó vương coi phần đất
lớn nhất của vương quốc đặt dinh
thự của ông. Những kẻ khác lại mời ngài lên
thuyền đến Đà Nẵng (Turam) là nơi không kém
phần quan trọng. Những kẻ khác nữa th́ lại
tŕnh bày những nhu cần khẩn thiết của xứ
Bầu Nghệ và của muôn vàn nơi khác nữa. Nhưng
những người tại Hội An th́ lại phản
đối, không chịu để ngài thoát khỏi tay
của họ.
Và tất cả
đều cảm thấy xót xa trước một bậc
vị vọng như thế mà lại ở trong một túp
lều quá đỗi tồn tàn. Tuy nhiên, họ thán phục
hơn nữa trước niềm vui nơi ngài giữa
chốn quá nghèo nàn và hèn hạ.
Phải về Xiêm
La.
Ngài muốn làm
vừa ḷng tất cả mọi người, hoặc v́
kết quả to lớn mà ngài hy vọng thu được
khắp nơi giữa những kẻ có đạo cũng
như những kẻ không có đạo, hoặc v́ ngài không
nỡ ḷng nào cho họ ra về với một lời
từ chối sau khi họ đă đến đây từ
20, 30 hay 50 dặm đường. Ngài phải ra vẻ
thích nghi giữa những cuộc thăm viếng khác nhau
với nhu cầu tuyệt đối phải quay trở
về Xiêm La sớm nhất có thể. Chúng tôi nghĩ rằng
Đức cha Hêliopolis (tức Đức cha Pallu) đă
tới Xiêm La. Hai vị giám mục này cần phải bàn
luận với nhau về nhiều sự và cần phải
thánh hiến một trong các vị giáo sĩ của các ngài
mà các ngài xét là xứng đáng hơn cả để
kế vị Đức cha Mêtellopolis. Bởi thế,
phải cáo lỗi cùng các vị đại biểu xứ
Đà Nẵng và xứ Bầu Nghệ. Để làm
dịu ḷng họ, chúng tôi hứa với họ rằng
Đức cha Bêrytê sẽ có thể trở lại vào
khoảng cuối năm này. Trong khi chờ đợi, ngài
sẽ gửi tới cho họ một linh mục tổng
đại diện để chuẩn bị cho họ
chịu phép thêm sức và ban cho họ các phép bí tích khác.
Ca Chàm.
V́ những vị
đại diện xứ Ca Chàm là những người
ở gần nhất, chúng tôi đi đến thăm
họ. Chúng tôi lấy hai thầy giảng làm người
bảo vệ trên đường sông. Họ là hai anh em
ruột. Họ đưa chúng tôi lên thuyền vào ban tối
và cho chúng tôi cư ngụ rất đàng hoàng ở gần
nhà thờ. Chúng tôi hẹn với các giáo dân vào một
buổi tối. Họ đến rất đông để
lănh phép thêm sức. Chúng tôi cũng rửa tội cho
nhiều lương dân. Nhưng v́ ở gần cận
với vị phó vương và có nhiều lính tráng,
điều không cho phép chúng tôi ở lâu hơn mà không gặp
nguy hiểm bị khám phá ra, nên chúng tôi đă mau chóng dùng
thuyền trở về Hội An.
Chia rẽ.
Nên nói ra ở
đây lư do chính yếu khiến Đức cha Bêrytê đă
phải ở lại Hội An lâu hơn ở những
nơi khác.
Đă từ mấy
năm qua, chúng tôi nh́n thấy bắt đầu có sự
chia rẽ (tại Giáo Hội Đàng Trong), và chúng tôi lo
ngại sự chia rẽ lan rộng hơn. Cha Hainques và cha
Brindeau đă viết thư về Xiêm La mà đau buồn
nói tới chuyện này trước khi các ngài từ
trần. Ư của các ngài là chỉ có quyền bính của
một vị giám mục, với sự hiện diện
của ngài, mới có thể ngăn chận
được cơn tai ác này. Thực vậy, khi chúng tôi
đến, chúng tôi thấy tinh thần các giáo hữu và các
thầy giảng rất chia rẽ về nhiều việc.
Nếu người ta không mau chóng đưa họ về
sự hiệp nhất, có thể họ sẽ bùng nổ ra
mạnh mẽ. Nhưng Thiên Chúa ban nhiều phúc lành cho
Đức cha Bêrytê hầu ngài chỉ dẫn cho mọi
người thấy cần phải bảo tồn sự ḥa
hiệp, và những ai hăng hái nhất th́ làm mọi
sự ngài mong muốn và họ góp phần giúp những ai
theo họ được b́nh tĩnh hơn.
Một buổi
hội chung.
Buổi họp
đó được diễn ra trong một buổi hội
chung. Đức cha Bêrytê muốn cho tất cả các tín
hữu biết rơ tường tận những ư
định và những mệnh lệnh của Ṭa Thánh. Ngài
muốn cất bỏ đi nguyên nhân những khác biệt
có thể chia rẽ họ. Ngài cho công bố cách chính
thức 5 tông sắc mà 4 tông sắc đầu là của
Đức Giáo Hoàng Alexandre VII và tông sắc thứ năm là
của Đức Giáo Hoàng Clêmentê IX. Những tông sắc này
lại được tái xác nhận bởi đấng
kế nhiệm là Đức Giáo Hoàng Clêmentê X. Tất
cả những tông sắc này đều được
mọi người đồng tâm đón nhận và tạo
được sự b́nh an. Sự b́nh an này sẽ bền
lâu nếu như những kẻ lúc đó đă vâng phục
vẫn tiếp tục vâng phục như vậy. Nhưng
v́ một nỗi bất hạnh mà chúng tôi không biết
phải tiếc xót sao cho vừa, họ đă nghĩ
phải hành động một cách khác. Việc này th́
thuộc quyền duy nhất Ṭa Thánh xét định lư
lẽ của họ, chúng tôi phải kính trọng chờ
đợi quyết định của Ṭa Thánh và tuân
phục không dè giữ.
Mấy kỷ
luật.
Ngoài việc công
bố mà chúng tôi vừa nói, chúng tôi cũng ra một vài
kỷ luật mà Đức cha Bêrytê lập nên theo ư
kiến của các linh mục tháp tùng ngài và của các thầy
giảng nhiều kinh nghiệm nhất trong xứ.
Những kỷ luật này có thể thu về 9 điều
khoản và sau đây là nội dung căn bản :
Điều 1 :
Tất cả các
thợ Phúc Âm, linh mục cũng như thầy giảng,
sẽ long trọng đọc tại các nơi họ làm
việc 5 tông sắc nói trên, và làm cho mọi người
nh́n nhận quyền bính của Ṭa Thánh.
Điều 2 :
Không ai
được làm công tác thầy giảng và giữ
tước vị thầy giảng mà không có phép rơ ràng
của Đức cha Bêrytê hay của linh mục tổng đại
diện của ngài, bằng không th́ sẽ bị vạ
tuyệt thông, v́ đă có những lạm dụng nặng
nề về điểm này.
Điều 3 :
Các giáo xứ mà
thầy giảng đă bị cắt chức có thể
chọn ra ai đó có khả năng nhất và đức
hạnh nhất để giúp giáo dân, thăm viếng
bệnh nhân, rửa tội trẻ nhỏ và giúp
người hấp hối, v.v. Phải gửi ngay tên các
người được chọn tới Đức cha
Bêrytê hay tới linh mục tổng đại diện của
ngài để sự chọn lựa ấy được
nh́n nhận. Như vậy, trước khi chịu phép thêm
sức, những người đó sẽ được
phép thi hành công tác của họ trong trường hợp
khẩn thiết.
Điều 4 :
Trước khi
rửa tội một người lớn, ai ban phép rửa
tội th́ phải hỏi người ấy xem họ có
sẵn sàng chưa.
Điều 5 :
Những ai
điều khiển các buổi hội họp ngày chúa
nhật và ngày lễ th́ phải liệu cho đọc Sáu
Điều Răn Hội Thánh, sau khi đă đọc
Mười Điều Răn Đức Chúa Trời.
Điều 6 :
Cũng những
người này phải sớm cho Đức giám mục hay
linh mục tổng đại diện của ngài
được biết về tất cả các đám hôn phối
đă làm hay sẽ làm, trong những thứ bậc bị
cấm, để c̣n được xét xử theo luật
khôn ngoan cẩn thận.
Điều 7 :
Không được
cho rửa tội những ai sống chung không phép
cưới trước khi họ xa rời nhau, và không
thấy rơ những dấu hiệu sửa đổi
nơi họ.
Điều 8 :
Những
lương dân nào muốn trở lại đạo mà có
nhiều vợ, th́ chỉ được giữ lại bà
vợ cả mà thôi, nếu như bà này xin chịu phép
rửa tội. Trong trường hợp bà ta không muốn
trở lại đạo, th́ có thể chọn bất
kỳ ai trong những bà vợ lẽ, miễn là bà sau này
được rửa tội, theo như chỉ dạy
của giáo luật.
Điều 9 :
Phải
thường xuyên ghi khắc vào ḷng các tín hữu rằng
giữ đạo tại tâm chưa đủ, để
được cứu rỗi th́ c̣n phải xưng
đạo ra bằng miệng lưỡi ḿnh nữa,
như thánh Phaolô nói, ngay cả khi nguy hiểm tới
mạng sống ḿnh.
Sau buổi hội
chung.
Đó là những
điều mà chúng tôi quy định trước khi rời
nơi này.
Chúng tôi được
an ủi v́ trong thời gian ở đây, chúng tôi đă
rửa tội cho 50 người ngoại giáo, và v́ con
số cùng phẩm hạnh tốt của 17 thầy
giảng mà Đức cha Bêrytê đă đặt lên bằng
việc ban chứng thư cho họ. Ngài ban cho mỗi
thầy một nhà thờ riêng thể theo ư muốn của
các tín hữu. Chúng tôi sẽ được măn nguyện
trọn vẹn, nếu như chúng tôi có được
nhiều tự do hơn nữa để ban các bí tích cho
tất cả những ai tŕnh diện. Nhưng những nghi
ngờ mà thiên hạ bắt đầu nêu ra về chức
vị con người chúng tôi đă khiến chúng tôi
phải thu hẹp lại và thậm chí phải mau chóng
rời ra đi. Tuy nhiên, trước khi chia tay ra đi,
trong một buổi hội gồm các linh mục và các
thầy giảng, chúng tôi có được niềm vui
quyết định chung rằng Đức cha Bêrytê sẽ
gửi về Rôma những thông tin chính xác mà ngài đă cho thực
hiện tại chỗ, về tất cả những
người đă chịu chết trong cuộc bách
đạo vừa qua. Đồng thời, các giáo hữu
Đàng Trong cũng gửi thư lên Đức Giáo Hoàng, xin
ngài hăy vui ḷng nh́n nhận như những vị tử
đạo các đấng anh hùng bảo vệ đức
tin vào Chúa Giêsu Kitô và cho phép toàn thể vương quốc
được cử hành hằng năm một buổi
lễ tôn vinh các ngài.
Về hồ
sơ các vị tử đạo Đàng Trong.
(Ghi chú riêng của nhà xuất bản)
Vào cuối năm
1673, Đức cha Bêrytê đă trao các thông tin trên cho
Chương X
Rời Hội An
Rời Hội An.
Mấy ông giáo dân
vị vọng xứ Nước Mặn, nơi Đức
cha Bêrytê đă bị bệnh, đi theo chúng tôi một
thời gian lúc chúng tôi rời đó ra đi. Họ thấy
được những việc lành chúng tôi làm tại
những nơi chúng tôi đi qua. Trở về xứ,
họ phúc tŕnh ra rất tích cực nên người ta
viết thư đến Đức cha Bêrytê tha thiết
xin ngài hăy trở lại qua đó lúc ngài muốn quay về
Xiêm La. Người ta thưa với ngài rằng thật là
không công b́nh khi ngài không ban sự hiện diện và sự
giúp đỡ của ngài cho xứ của họ. Bởi v́
xứ của họ chỉ được vinh dự
tiếp ngài với nỗi ưu phiền v́ ngài đau
bệnh, chẳng được hưởng ḷng nhiệt
thành của ngài. Lời kêu van đó được diễn
tả bằng những lời lẽ rất cảm
động khiến ngài không c̣n cách nào từ chối
được.
Chúng tôi lên thuyền
xuôi ḍng sông ngày 15.02.1672, với ư định làm vui ḷng
những người dân trung hậu đó.
Thoát một nguy
hiểm.
Chúng tôi gặp gió ngược
suốt 5 ngày trời. Vào những ngày đó, Thiên Chúa đă
giải cứu chúng tôi khỏi một cơn nguy hiểm
lớn. Người ta đă chặn con thuyền của
chúng tôi tại một hải quan. Người ta hỏi ông
thủy thủ chính xem ông có chở người khách
nước ngoài nào không. Hơi kinh ngạc trước câu
hỏi đó, ông ta cũng cố hết sức để
trả lời thoát thân theo khả năng ḿnh. Tuy nhiên, chúng
tôi qua được. Nhưng chúng tôi vừa chớm đi
xa được khoảng một tầm súng bắn th́
người ta bắt chúng tôi phải quay trở lại.
Vài nhân viên vào con thuyền chúng tôi để thăm
viếng. Nếu họ tinh mắt hơn, chúng tôi đă
bị khám phá ra và gặp nguy hiểm nặng nề
rồi, bởi v́ sự việc sẽ được tấu
tŕnh lên nhà vua, chỉ duy có Chúa mới biết những
sự ǵ sẽ xảy ra sau đó.
Quả thực là
chúng tôi đă cải dạng thành người đi buôn.
Nhưng ngoài chuyện chúng tôi không có giấy thông hành,
người ta c̣n dễ dàng nhận ra chúng tôi, nếu
người ta mở các gói hành lư của chúng tôi ra và
thấy những đồ lễ của chúng tôi. Có thể
họ là những người có đạo, bởi v́
nếu họ là người ngoại, họ đă khám xét
rất kỹ lưỡng rồi. Cuối cùng, sau nhiều
ṿng đi và ṿng lại, chúng tôi xong được
chuyện nhờ một chút tiền và rượu bản
xứ.
Trở lại
Quảng Ngăi.
Ngay khi thoát ra
khỏi tay họ, chúng tôi chỉ c̣n nghĩ tới
chuyện phải tới được, sớm nhất có
thể, con thuyền mà chúng tôi đă thuê cho hết phần
c̣n lại của chuyến đi Đàng Trong. Chúng tôi đi
qua trước nhiều hải quan mà không ai hỏi han ǵ
chúng tôi. Chúng tôi ra tới cửa sông. Sau mấy ngày nắm
chờ gió thuận tại đó, chúng tôi ra được ngoài
biển.
Nhưng gió sớm
thay đổi, trở nên vũ băo, khiến chúng tôi
phải quay vào đất liền để trú thân tại
một vài vùng vịnh mà người ta gập thấy
đầy dẫy dọc bờ biển. Chúng tôi ở
lại đó không bao lâu, v́ chúng tôi mong ước mau đến
được bến cảng chính của xứ Quảng
Ngăi. Chúng tôi hối thúc các thủy thủ tiếp tục
con đường cho dù thời tiết tồi tệ.
Họ đă làm để cho chúng tôi vui ḷng và đă
đưa chúng tôi đến bến cảng mà chúng tôi
muốn đến cách b́nh an.
Rất nhiều con
thuyền đă ra biển cùng ngày hôm đó với chúng tôi,
nhưng đă không gặp may như chúng tôi. Có những con
thuyền đă tới nơi sau chúng tôi trong t́nh trạng
thảm hại : buồm th́ bay mất, cột buồm
th́ bị gẫy và bánh lái th́ bị bể. Có những con
thuyền khác th́ bị vỡ đắm ngay trên những
tảng đá do sóng biển xô dạt thuyền vào. Có 6
người cùng một con thuyền đă bị tử
nạn. Xem đó, tôi không biết phải cảm phục
sao cho đủ sự quan pḥng của Thiên Chúa trên chúng tôi.
Bởi lẽ, cứ theo vẻ bề ngoài th́ đúng ra con
thuyền của chúng tôi đă bị nạn hơn là
những con thuyền khác. Lư do là các thủy thủ của
chúng tôi luôn giữ những cánh buồm lớn dù gió
thật dữ dội, thay v́ dùng những cánh buồm
nhỏ như người khác để dễ thích
ứng. Tuy nhiên, xem ra họ cẩn thận hơn chúng tôi,
nhưng chúng tôi lại may mắn hơn họ.
Dừng chân
tại Nước Mặn.
Xuống thuyền,
chúng tôi hỏi các chú học tṛ trẻ ở đâu. Các chú này
phải đợi chúng tôi tại một bến cảng
nọ để cùng chúng tôi sang Xiêm La. Một người
trong nhóm của họ mà họ đă cố t́nh để
lại đó đă báo cho chúng tôi rằng, theo ư kiến
của các bậc vị vọng trong giáo hữu,
người ta đă cho các chú đi đường bộ
trước chúng tôi vào xứ Nước Mặn rồi,
với một ông nào đó là người dạy các chú
biết đọc và biết viết tiếng bản
xứ.
Tin này khiến chúng
tôi phải trở lại con thuyền của chúng tôi.
Bằng đường biển, chúng tôi sẽ đi
gặp các chú, nhưng chẳng được mau lẹ
như chúng tôi mong ước, bởi v́ thời tiết
xấu đă cản chân chúng tôi.
Chúng tôi ở
lại một thời gian tại cửa biển
Nước Mặn để chuẩn bị tất cả
những ǵ liên quan tới chuyến trở về Xiêm La.
Chúng tôi chấp nhận một con thuyền giống như
con thuyền đă chở chúng tôi tới Đàng Trong. Trong
lúc người ta sửa soạn con thuyền, Đức
cha Bêrytê đi viếng thăm các nơi khác nhau, nơi nào
giáo dân cũng rất đông đảo.
Cha chính xứ
Nước Mặn.
Giáo dân không c̣n
biết diễn tả niềm vui của họ như
thế nào khi họ nh́n thấy vị giám mục của
họ mạnh khỏe, sau khi đă từng thấy ngài
cận kề với cái chết. Phép thêm sức, phép
giải tội và phép Ḿnh Thánh Chúa là công việc liên tục
suốt 8 ngày trời, cả ngày cả đêm, bởi v́
gần như đừng phải nghĩ tới chuyện
nghỉ ngơi một chút nào.
Chúng tôi gửi
đi 6 chứng thư, cho các thầy giảng cũng
như cho những người khác là những người
không có tước vị thầy giảng nhưng
được đặt đứng đầu các nhà
thờ nào đó. Và để cho niềm vui của
những người dân này được trọn vẹn,
Đức cha Bêrytê đặt cha Giuse, linh mục
người Việt, tại giáo xứ chính của họ,
để ngài làm cha chính xứ. Ngài c̣n cho cha thêm, ngoài
nhiệm vụ đặc biệt trên, quyền quản
nhiệm tổng quát toàn xứ (Nước Mặn).
Vị công nhân
đáng kính này là người được vinh dự làm
linh mục người xứ Đàng Trong tiên khởi.
Chắc hẳn, ngài đă nhận lănh được
những hoa quả đầu mùa trong tinh thần linh
mục. Ngài là người mang một ḷng nhiệt thành nóng
bỏng, một đức cẩn thận hiếm có, và
một sức làm việc không thể tưởng
tượng được. Ḷng bác ái của ngài làm cho ngài
vui vẻ chịu đựng được tất cả
mọi tật xấu của dân tộc ngài. Tính hiền ḥa
của ngài khiến ngài nên dễ cảm mến đối
với tất cả mọi người. Đức khiêm
nhường của ngài làm cho chính ngài phải khổ cực
lắm khi chịu đựng chính con người ḿnh.
Đức vâng lời của ngài làm ngài phục tùng cách
tuyệt đối các bề trên của ngài ; cho dù
ở nhiều nơi, người ta đă tha thiết
muốn có được ngài làm vị mục tử
chăn dắt họ, ngài không hề bao giờ tỏ ra
ước muốn nào khác hơn là được thi hành ư
muốn của vị giám mục của ngài.
Một
người thuộc ḍng dơi nhà vua.
Sau khi đă nêu ra
một chứng từ nhỏ cho một người
xứng đáng mà tôi là chứng nhân nhăn tiền, tôi phải
nói ra rằng trong lúc Đức cha Bêrytê đi đây đi đó
th́ tôi, theo lệnh ngài, phải ở lại nơi chúng tôi
đă cập bến với tất cả những chú
học tṛ của chúng tôi và với cả ông thầy
giảng là người đă giúp tôi trong xứ Quảng
Ngăi.
Lúc ấy, chúng tôi
đang ở vào những ngày đầu tiên của Mùa Chay.
Và sự thánh thiện của Mùa Chay đă làm tăng thêm
ḷng sốt mến của các tín hữu các vùng lân cận.
Họ đă tụ họp lại thành từng đoàn bên
cạnh tôi. Trong ṿng 7 ngày, chúng tôi đă rửa tội cho
nguyên một gia đ́nh, ngoài một vài cá nhân ra. Trong số
họ, tôi vô cùng cảm kích về một vị quư tộc
trẻ 28 tuổi là người được coi là có
họ hàng với nhà vua và là người có nhiệm vụ
lo các binh đoàn của nhà vua.
Đă từ lâu, anh
ta tha thiết xin được ân huệ này, anh ta đă
tới gặp nhiều thầy giảng. Các thầy
đều từ chối mà không dám thổ lộ ǵ với
anh ta cả, v́ các thầy sợ anh ta lợi dụng cái
dễ dàng của các thầy để làm hại giáo
hữu. Nhưng anh ta chẳng hề trách oán ai, âm thầm
t́m biết được nơi tôi đang ở, anh ta
đến tŕnh bày cho tôi niềm ao ước của anh.
Tôi ḍ xét anh theo tất cả khả năng của tôi xem
anh có thực sự thành tâm không. Tôi c̣n hỏi anh ta xem anh có
được học biết về các mầu nhiệm
đạo chúng ta không. Tôi đă viết cho Đức cha
Bêrytê những điều tôi nghĩ về ḷng thành và
về các đức độ khác nơi vị quư tộc
trẻ tuổi này. Ngài nói tôi hăy rửa tội cho anh ta mà
không phải hăi sợ chi. Tôi đặt tên cho anh ta trên
giếng nước rửa tội là Phê Rô.
Một dự tính.
Sau đó, anh tân ṭng
ấy tin tưởng tôi đến độ cởi
mở tâm hồn anh ra với tôi một cách thật
đơn sơ chân thật. Anh nói với tôi rằng anh
cảm thấy rất bị lôi cuốn hiến thân cho
Thiên Chúa cách đặc biệt. Anh thấy nhiều nguy
hiểm khi trở lại triều đ́nh là nơi anh
đă thoát ra khỏi. Ngay khi anh trở về, cha mẹ anh
là người có những trách nhiệm hàng đầu
tại triều đ́nh, sẽ có thể dùng uy tín bên
cạnh nhà vua và quyền bính trên anh mà bắt anh nhận
một nhiệm vụ nào đó không thích hợp với
việc giữ đạo. Bởi v́, vào một số
dịp, những công vụ ấy đ̣i hỏi anh phải
tuyên xưng ngoại giáo như những người khác,
hoặc là bị kết tội phản nghịch lại
nhà vua.
Tôi đề
nghị mang anh theo vào số các chú học tṛ của chúng
tôi, và Đức cha Bêrytê đồng ư điều ấy.
Nhưng vào lúc chúng tôi khởi hành, anh bị lên cơn nóng
sốt suốt mấy ngày trời nên anh không thể theo
chúng tôi sang Xiêm La được.
Thiên Chúa đă cho
phép như vậy để tránh cái ác hại có thể
xảy đến từ chuyện trên. Bởi v́ luật
pháp xứ Đàng Trong kết án tử h́nh binh sĩ nào ra
khỏi vương quốc mà không có phép của nhà vua. Anh
ta hẳn nhiên là sẽ gặp nguy hiểm lớn bị
nhận diện và bị bắt giữ bởi một
vị sứ thần đất nước anh mà chúng tôi
đă gặp, và thậm chí vị sứ thần này c̣n dám
chửi bới chúng tôi nữa khi chúng tôi về tới
bến cảng Xiêm La, như sẽ thấy ở
chương sau đây.
Chương XI
Trở về Xiêm
La
Tại bến Nha
Ru.
Trước khi
rời Hội An, Đức cha Bêrytê đă nhận
được thư của cha Mahot xin ngài hăy ghé xứ
Phủ Mới để an ủi giáo dân. Vị thừa sai
này cho biết ngài thấy tương lai mở rộng cho
việc làm sáng danh Chúa Giêsu Kitô. Có những nơi cả làng
xin học đạo chuẩn bị chịu phép rửa
tội. Ngài gặp một vài người trong dân chúng, cho
dù họ c̣n là dân ngoại, xong đă biết các kinh
nguyện của chúng tôi. Dáng vẻ tốt đẹp
đó khiến Đức cha Bêrytê quyết định
viếng thăm xứ đó lần thứ hai trên
đường đi. Chúng tôi chỉ c̣n cuộc viếng
thăm này nữa là hoàn tất những lời mà chúng tôi
đă hứa với các tín hữu của những giáo
đoàn (églises) khác nhau.
Chúng tôi lên
đường về hướng bờ biển đó.
Nếu Thiên Chúa phù hộ dự tính của chúng tôi, chúng tôi
quyết định sẽ đáp thuyền đến
bến cảng xứ Nha Ru. Nhưng khi chúng tôi đến
gần đó, biển lại rất động
đến nỗi xem ra không thể nào mà cập bến mà
lại không bị nguy hiểm tới tính mạng của
tất cả mọi người trong thuyền. Chúng tôi
đành viết thư cho cha Mahot, nhờ một thủy
thủ liều lĩnh chèo xà lúp đem tin chúng tôi vào cho ngài,
và cho ngài biết chúng tôi không thể nào đặt chân lên
đất liền được.
Ngài phải chịu
một hy sinh hăm ḿnh là không thể ra đến con
thuyền của chúng tôi được, bởi v́ ngài
đang bị đau. Nhưng ngài sai một vài chú học
tṛ ra gặp chúng tôi. Ngài có ư muốn sẽ dạy dỗ
các chú này. Dưới sự hướng dẫn của
một thầy giảng là thầy dạy của các chú,
tất cả các chú đến nhận phép lành của
Đức cha Bêrytê.
Dáng khiêm tốn
của các chú làm chúng tôi rất vui ḷng. Các chú ấy cũng
học được nhiều nơi cái khiêm tốn
của những chú học tṛ của chúng tôi. Chúng tôi có
thể nói rằng thời gian các chú gặp nhau đă khích
lệ các chú cả đôi bên. Chúng tôi kỳ vọng rất
nhiều nơi các mầm non này để đạo Chúa sẽ
được phát triển tại xứ Đàng Trong.
Sau cùng, chúng tôi cho
các chú trở vào bến cảng. Chúng tôi từ giă cha Guyart,
người đă đi tiễn chúng tôi cho tới tận
đây. Đức cha Bêrytê lúc ra đi đă lập ngài làm
linh mục tổng đại diện tại vương
quốc này, với lệnh phải mau lẹ đi thăm
viếng tất cả mọi nơi.
Cuộc chia tay này
không phải là không đau ḷng. Nhưng Đấng Quan Pḥng
đă định như vậy, tại v́ chúng tôi buộc
ḷng phải mau trở về Xiêm La do thời tiết và do
công việc thúc đẩy.
Đường
về.
Ngày 29/3/1672, chúng tôi
căng buồm ra khơi. Lúc này, mọi sự đều
thuận tiện cho việc đi biển. Và ngay chiều
hôm đó, chúng tôi không c̣n nh́n thấy mảnh đất
Đàng Trong nữa. Chúng tôi đi t́m những ḥn đảo
xinh đẹp mà chúng tôi đă thấy rất tiện
lợi trong bận đi. Những ḥn đảo này chỉ
thích hợp cho các con thuyền nhỏ như con thuyền
của chúng tôi mà thôi. C̣n những con tàu lớn một khi
bị gió và luồng nước xô vào, th́ không thể quay ra
được nữa và đương nhiên là sẽ
bị hư hỏng ngay tại đảo.
Sau khi đi lênh
đênh trên biển cách b́nh an suốt 25 hay 26 ngày, chúng tôi
bị lạc đường lúc gần như kết thúc
chuyến đi. Các thủy thủ đă lẫn lộn con
sông này với con sông nọ, chúng tôi trễ mất 24 giờ
đồng hồ. Họ vào được con sông Xiêm La
khoảng 10 tháng sau khi chúng tôi rời khỏi đó. Chúng tôi
gặp lại ḍng sông này, không những với niềm vui
quen thuộc của các khách du hành khi trở lại nhà ḿnh,
mà c̣n có cái thú vị mà người ta hưởng
được trên ḍng sông, với bao nhiêu là cây cối xanh
tươi dịu mát bao quanh, và với tất cả
những đồ ăn ngon tươi mà người ta
gặp được.
Gặp vị
sứ thần Đàng Trong.
Chúng tôi c̣n ở
trong thuyền khi vị sứ thần Đàng Trong nhận
ra chúng tôi. Ông đang đi dạo chơi trong thuyền
của ông ở khoảng lối vào kinh thành, đối
diện với ngôi nhà của những người Ḥa Lan,
cách nhà chúng tôi một dặm.
Cuộc gặp
gỡ bất ngờ này đă gây ra cho chúng tôi một
nỗi gian truân rất phiền phức. Bởi v́ vị
sứ thần này bất chợt gặp thấy một
cánh buồm của xứ ông chở người Đàng
Trong, ông tin dễ dàng rằng đó là những kẻ
lẩn trốn, và ông nghĩ rằng ông phải có nhiệm
vụ bắt giữ họ với bất kỳ giá nào.
Chắc chắn là ông ta sẽ làm việc ấy, nếu
như không có một can thiệp của Đấng Quan
Pḥng giúp giải cứu bất ngờ chúng tôi, trong một
t́nh cảnh mà tất cả những cẩn thận
của con người không thể tiên liệu
được.
Một nhóm
người có vũ trang, mà tôi không biết do sự t́nh
cờ nào, lại đang ở gần đó. Họ là
những người có đạo. Khi họ nghe ai đó
nói rằng trên thuyền có một vị giám mục mà
người ta muốn bắt giữ, họ liền
chạy tới nơi có tiếng ồn ào. Họ kéo chúng
tôi ra khỏi những rắc rối. Sau đó, chính chúng tôi
tự ḿnh về tới nhà báo tin mừng chúng tôi trở
về b́nh an.
Lo ngại.
Tuy vậy, chúng tôi
vẫn rất lo ngại về những chuyện có
thể xảy ra sau vụ này. Thực ra, không phải
tại Xiêm La là nơi mà chúng tôi biết rằng nhà vua
sẽ không từ chối bảo vệ chúng tôi, nhưng
tại Đàng Trong, v́ ông sứ thần có thể viết
thư về đó, theo cách thức mà ông đă dấy
động người ta chống lại đạo thánh
chúng tôi.
V́ lư do đó, chúng
tôi xét rằng phải dùng một vài giải pháp với ông
ta để ḍ xem ư hướng của ông. Đức cha
Bêrytê gửi tới ông một người Nhật có
đạo để nói với ông thay cho ngài, rằng ngài
đă cảm thấy rất bức xúc khi bị chửi
rủa tại đất nước này, và tại kinh
đô của một vị vua vốn quư trọng bảo
vệ các người Pháp cho đến bây giờ, và
rằng ngài không tin Đức vua sẽ chấp nhận
được cách đối xử tồi tệ của
người ta đối với bản thân ngài. Ban
đầu, vị sứ thần xin lỗi cách khá lịch
sự. Nhưng chúng tôi nh́n thấy những thù hận trong
ḷng ông qua tất cả vẻ lịch thiệp bên ngoài.
Chúng tôi sợ rằng con người này sẽ giữ
tất cả hờn giận của ông cho tới lúc ông
quay về lại xứ Đàng Trong, (nếu ông chưa trút
cơn giận ra lúc đó qua những lời bí mật trong
thư từ của ông). Bởi thế, chúng tôi dùng hết
cách thức có thể tưởng tượng ra
được để lấy ḷng ông ta, hầu từ
từ cất khỏi ông ư định mà ông có thể đă
có là tung tin chống lại các thừa sai mà chúng tôi đă
để lại tại Đàng Trong, khi ông được
cấp trên gọi trở về bên đó.
Người trung
gian.
T́m ra
được một người làm trung gian với
vị sứ thần th́ không khó khăn. Ông ta có một
sứ thần đồng nghiệp mà may thay lại là
người có đạo. Ông này sẵn ḷng nhận vụ
việc của chúng tôi mà ông ta coi như việc của
Thiên Chúa vậy. Ông ta xem như một niềm vui được
nên hữu dụng cho vinh quang Thiên Chúa khi lo việc ích cho
chúng tôi. Ông chẳng quên điều ǵ trong một cuộc
thương lượng rất thánh thiện như
vậy. Bởi thế, chúng tôi có thể nói được
rằng Thiên Chúa đă ban cho ông ta tất cả mọi phúc
lành mà chúng tôi có thể chờ đợi nơi tính cẩn
thận và ḷng nhiệt thành của ông. Và nếu những
vẻ bề ngoài không phỉnh lừa chúng tôi, th́ không
những vị sứ thần sẽ không làm hại chúng
tôi, mà chúng tôi c̣n hy vọng ông ta sẽ là một
người bạn nữa.
Tuy nhiên, lúc ban
đầu, ông ta không nhường bước ngay. Bởi
v́ ông ta đă đệ đơn ra ṭa chống lại các
thủy thủ của con thuyền chúng tôi. Phải khó
nhọc mới làm cho ông ta nguôi lại trong vụ này.
Nhưng sau cùng, ông ta trấn tĩnh được nhờ
Đức cha Bêrytê đề nghị sẽ gửi một
thừa sai đi theo ông ta, ngay trên con tàu của
- Hết -