Jacques de Bourges

Kư Sự cuộc hành tŕnh của Đức cha Beryte

Đào Quang Toản

dịch và chú thích

- 1996 -

Lời giới thiệu

Chương 1

Chương 2

Chương 3

Chương 4

Chương 5

Chương 6

Chương 7

Chương 8

Chương 9

Chương 10

Chương 11

Chương 12

Chương 13

Chương 14

Chương 15

Chương 16

Chương 17

Chú thích

Mục lục

 

Lời giới thiệu

Jacques de Bourges là linh mục địa phận Paris (Pháp) đă theo đức cha Lambert de la Motte ngay từ buổi đầu để đi rao giảng Tin Mừng cho Trung Hoa, Việt nam.... Rồi sau đó, vâng lời đức cha, từ Ajuthia (kinh đô xứ Xiêm La) cha trở lại Âu Châu lo một số công chuyện. Nhân dịp này, cha xuất bản một tập Kư Sự, mà chúng tôi dịch sang tiếng Việt đây, kể lại cuộc hành tŕnh từ Paris đến Xiêm La (tức Thái Lan ngày nay) của đức cha Lambert de la Motte và hai linh mục phụ tá là cha François Deydier và chính cha Jacques de Bourges. Đó là tài-liệu-in đầu tiên nói về cuộc hành tŕnh lịch sử trên (1660-1662). Xuất bản tại Paris hồi đầu năm 1666, bằng tiếng Pháp.

Viết vào thế kỷ 17, lối văn của tác giả khác với bây giờ rất nhiều. Kể luôn cả một số từ ngữ mà hiện nay không thấy ai c̣n dùng nữa. Đó là một trong các khó khăn khi làm công việc dịch thuật này. Một giới hạn nữa là v́ lưu đầy xa quê nhà đă một thời gian, lại học hành bên Tây này, nên tiếng Việt của chúng tôi không có ǵ phong phú. Xin hăy thông cảm cái yếu kém này của chúng tôi. Cảm tạ!

Trong khi dịch, chúng tôi cố gắng tránh dùng từ «truyền giáo», thay vào đó, chúng tôi dùng từ «thừa sai» hoặc «sứ vụ thừa sai». Tại sao vậy ? - Trộm nghĩ là trong việc rao giảng Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, người ta phải được «kêu gọi» và được «sai đi». Mặt khác, rao giảng Tin Mừng chưa hẳn đă là rao giảng tôn giáo, tức «truyền giáo». Giáo Hội chưa phải là Nước Trời. Nhưng nói thế là nói cho ngày hôm nay. Chứ vào thời của Jacques de Bourges, rao giảng Tin Mừng là «giảng đạo», là «truyền bá đạo»... dưới sự điều khiển của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin tại Roma.

C̣n về khung cảnh lịch sử việc rao giảng Tin Mừng vào những thế kỷ 15, 16 và 17: thế giới Kitô giáo Tây Phương chỉ bắt đầu mở rộng ra từ khi ngành hàng hải phát triển. Trước tiên là việc thám hiểm thế giới «mới», việc thương mại, rồi sau đó là việc đi rao truyền Tin Mừng. Trên tàu vượt đại dương, có lính, có lái buôn và có tu sĩ linh mục thừa sai. Giáo triều Roma ban đầu giao việc rao giảng Tin Mừng cho triều đ́nh Bồ Đào Nha, rồi thêm Tây Ban Nha, chỉ v́ các triều đ́nh Công giáo này có tàu bè đi khắp nơi. Sau, do những lạm dụng hoặc bê bối trong các sứ vụ thừa sai, Roma quyết định tự ḿnh trực tiếp điều khiển lấy công việc rao giảng Tin Mừng: «Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin» ra đời năm 1622, ngày 22 tháng Sáu. Và nước Pháp Công giáo thời vua Louis XIV trị v́ (1643-1715) đang phát triển lên. Nhờ đó và trong chiều hướng cải tổ việc rao giảng, Roma dùng người Pháp hơn người Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha, và chọn linh mục «triều» (linh mục địa phận) hơn là linh mục «ḍng» (tu sĩ). Roma có ư hướng riêng của Roma trong mọi quyết định trên, tựu chung cũng là để «đời» đừng chen chân quá vào «đạo». Chính trong tổ chức mới ấy, Giáo Hội Việt Nam đă thực sự thành h́nh được nhờ các linh mục «triều» của Pháp, tức Hội «Missions Étrangères de Paris» do các đức cha Pallu, Lambert de la Motte và Laneau thành lập vào hậu bán thế kỷ 17.

Chúng tôi cũng xin gửi ít ḍng sau đây đến nữ tu các Hội ḍng Mến Thánh Giá:

Các Chị Em thân mến,

Đức cha Lambert de la Motte là đấng sáng lập ḍng của Chị Em. Dịch và chú giải tài liệu này, chúng tôi nghĩ nhiều tới các Chị Em với ḷng cảm mến v́ việc dấn thân phục vụ người nghèo của một số người trong các Hội Ḍng, và, với ước mong trao đến các Chị Em thêm một chút hiểi biết về đức cha Lambert de la Motte.

Xin chân thành cám ơn sự đón nhận của bạn đọc và các Chị Em thuộc Hội Ḍng Mến Thánh Giá.

Mùa hạ 1995 bên xứ Tây,

Giuse Đào Quang Toản.

 

<<<<<

Chương 1

Những sự việc đă xảy ra tại Roma cũng như tại Paris trước cuộc hành tŕnh của ba giám mục người Pháp được sai sang Trung hoa ...

 

Mục đích của chúng tôi khi cho ra đời Kư Sự này là để làm hài ḷng một số rất đông người đạo đức, muốn góp phần vào việc truyền bá đức tin với sứ mệnh thừa sai đang hồi thành công của ba giám mục người Pháp đă được sai sang Trung Hoa từ năm năm nay. Họ là những người, sau khi được biết cuộc hành tŕnh b́nh an của đức cha Beryte (1) (rời Paris trước tiên) tới xứ Xiêm La, xin làm chứng những sự thể đáng kể đă xảy ra. Đúng ra, tôi không cần làm công việc tường thuật này, bởi v́ đức cha Beryte và các giáo sĩ theo ngài, suốt cuộc hành tŕnh chỉ chú tâm vào mục đích của sứ mệnh thừa sai, không lo chi đến chuyện quan sát những sự việc mà các khách du hành b́nh thường vốn cẩn thận ghi chú, không bỏ xót điều ǵ. Tuy nhiên, v́ ḷng yêu mến kính phục công việc và muốn am hiển tường tận mọi chi tiết, nên những người đạo đức nói trên đă nhiều lần xin tôi cho quần chúng được rơ về cuộc hành tŕnh của chúng tôi, mục đích là để những ai nhiệt thành với việc trở lại của người dân Trung Hoa và các dân tộc khác tại Á Châu có thể rút tỉa ra được những ích lợi nơi đây.

Trong Kư Sự mà tôi sẽ kể sau đây, bạn đọc sẽ nhận ra, ít nữa, là một tấm ḷng can đảm cương quyết với ơn Chúa phù hộ. Cho đến hôm nay, người ta vẫn nghĩ là hành tŕnh sang Trung Hoa là việc không thể thực hiện được đối với người Pháp, nhưng đức cha Beryte đă mở ra một con đường mà cho đến nay, tại Pháp, không ai biết đến, lại là một con đường dễ dàng và an toàn. H́nh như Chúa đă thành công khi muốn phá tan những lo sợ nơi mọi kẻ, v́ sự bất an và khó khăn trên đường hành tŕnh, đă khiến họ ngoảnh mặt đi trước công tŕnh rất to tát và rất thánh thiện như công tŕnh đem đức tin đến các dân tộc sống nơi rất xa xôi Âu Châu này. Tôi hy vọng rằng nhiều người, qua việc tŕnh bày nơi đây, càng ngày càng hiểu thấu mức độ quan trọng của sứ mệnh thừa sai lớn lao này là việc hoán cải một xứ sở lớn rộng hơn cả lục địa Âu Châu với hơn hai triệu linh hồn, chưa tính đến các xứ lân cận cũng rất đáng kể. Chính là để chinh phục những xứ sở rộng lớn này mà hôm nay Chúa Giêsu Kitô mời gọi ḷng nhiệt thành của người dân Pháp (2). Không ai c̣n có thể nghi ngờ điều này một cách hợp lư nữa, bởi chưng sự kiện Ṭa Thánh sai ba giám mục người Pháp ra đi là một dấu chứng tỏ tường rồi.

Và v́ Kư Sự này có thể nằm trong tay nhiều người không biết nguồn gốc sứ mệnh thừa sai của ba giám mục ấy, thiết nghĩ là cần kể lại đây những sự thể chủ yếu đă xảy ra hầu làm thỏa măn bạn đọc.

 

&

 

Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta thấy là những sứ mệnh thừa sai lớn lao nhất thực hiện vào những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội để truyền bá đức tin giữa dân ngoại, hầu như tất cả đều khởi sự bằng các giám mục. Ngày nay, với nhận định đúng đắn, Giáo Hội thực hiện sứ mệnh thừa sai một cách khác: Giáo Hội chỉ gửi những giám mục đến các nơi ngoại giáo một khi nơi đây đă có được một số dân Kitô giáo đủ để tạo thành một Giáo Hội.

Đă hơn một thế kỷ, đức tin được truyền bá tại mọi nơi mọi chốn miền Đông Á Châu, nơi có rất nhiều xứ sở và nhiều dân tộc sống tuân phục mọi vua chúa khác nhau (3), và gần như tất cả dân tộc này đều thần phục Ngụy giáo (4). Từ thế kỷ các Thánh Tông Đồ, Giáo Hội chưa thực sự có được con đường nào để phát triển và để lớn rộng ra, cho măi đến thế kỷ vừa qua với con đường mà nghành hàng hải tạo nên. Đó là xét về địa hạt bao la và sức mạnh của các xứ sở nói trên, hay là về phong tục và tŕnh độ nhân văn của các dân tộc địa phương đó, hay là về thiện chí rao giảng đức tin, hay là về những việc tuyệt vời Chúa đă thực hiện qua các thợ thừa sai ḥng thiết lập Giáo Hội ở mọi nơi trên.

Những thành đạt trong việc loan truyền đức tin tại các nơi đó có khác nhau, tùy theo tinh thần sẵn sàng hay không nơi dân địa phương mà các tông đồ thừa sai đă đến gặp gỡ. Tuy vậy, điều chắc chắn mà ích lợi cho Kitô Giáo, là gần như không c̣n một xứ quan trọng nào nơi phần đất mới đó của thế giới (5) mà không được đức tin chiếu soi, nhờ các vị lo việc tông đồ rao giảng. Bởi đó, lời của Đấng Cứu Thế được coi như đă thực hiện rằng Phúc Âm của Ngài sẽ được loan truyền khắp cả thế gian. Nhưng điều đáng để tâm suy nghĩ là lời tiên báo ấy, đă thành sự thực và qua đó, minh chứng cho chúng ta rơ rằng lời của Chúa chúng ta thực là lời chân lư. Và lời tiên báo ấy đă tỏ hiện hiệu năng rực rỡ, chỉ duy nhất dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội tông truyền Roma, và nhờ các thợ thừa sai mà Giáo Hội đă sai đi trong mục đích ấy. Bởi chưng, Giáo Hội là Giáo Hội duy nhất có được đức tin chân chính và ḷng bác ái nhiệt thành lo việc truyền bá đức tin chân chính đó đến cùng bờ cơi trái đất (6).

Mặc dù ơn trở lại đạo phát triển khắp nơi tại Trung Hoa cũng như tại các nước lân cận, từ hơn ba mươi năm nay, ơn trở lại đạo triển nở đặc biệt tại xứ Đàng Ngoài và xứ Đàng Trong (7): những Kư Sự mới đây của các cha Ḍng Tên cho chúng ta tin rằng riêng tại Đàng Ngoài, đă có một số lớn các nhà thờ và hơn ba trăm ngàn Kitô hữu: nhưng hai điều khiến việc Phúc Âm bị chậm trễ là số thợ thừa sai quá ít, lại gặp khó khăn khi t́m nâng đỡ và giúp họ lưu sinh nơi những miền hẻo lánh xa xôi trục giao liên của người Âu Châu.

Giữa những thợ thừa sai đă nhiệt tâm vun xới phần đất hoang vu này từ thuở tạo thiên lập địa, các cha Ḍng Tên đă đóng vai tṛ đáng kể hơn bất kỳ ai cả, nhờ ân sủng đặc biệt riêng mà Thánh Phanxicô Xavier đă đạt cho họ qua cái chết của ngài tại đảo Sancian. Nhờ ơn Chúa chúc phúc, công việc các cha đă đem nhiều tiến bộ cho đức tin trên khắp xứ Đàng Ngoài, khiến các cha thấy cần phải tŕnh lên Ṭa Thánh nhu cầu sai gửi các giám mục đến những miền trên.

Nhiều lư do cho thấy cần phải thực hiện việc sai gửi này. Nhu cầu thợ thừa sai rất quan hệ cho Đàng Ngoài, nơi dưới sự hướng dẫn của chỉ duy một cha Ḍng Tên có tới cả hơn tám ngàn tín hữu rải rác khắp nơi trong lănh thổ. Xa xôi cách trở nên không dễ sai gửi thợ thừa sai Âu Châu đến nơi. Vả lại, người ta luôn luôn e ngại những vụ bắt đạo xảy ra, khiến các Giáo Hội nơi đó chẳng c̣n có linh mục. Bởi v́ cơn giông tố đầu tiên thường đổ xuống trên các vị rao giảng, là người nước ngoài, dễ nhận diện, nên là những kẻ bị trục xuất đầu tiên. Do đó cần phải ngăn ngừa chuyện trắc trở này bằng cách lo cho xứ Đàng Ngoài và các xứ lân cận những giám mục nhân đức để đào tạo các linh mục bản xứ, đặt các Giáo Hội trên vào t́nh trạng tự ḿnh lo lấy cho ḿnh (8).

Cha Alexandre de Rhodes, người thành phố Avignon, thuộc Hội Ḍng Tên, được ca tụng như đấng sáng lập Giáo Hội xứ Đàng Ngoài. Cha trở về Âu Châu với nhiệm vụ lo đệ tŕnh lên Toà Thánh hiện trạng các Giáo Hội khai sinh trên và nhu cầu giám mục cho các Giáo Hội này: cha đến Roma lo việc, ở lại hơn một năm trời thương lượng, song không t́m được người có khả năng như ḷng cha mong đợi. Thánh ư Chúa đă dành công tŕnh này để thực hiện với tinh thần đạo đức của người dân Pháp.

Cha đến Paris, tŕnh bày lư do cuộc lưu hành của cha và nhu cầu khẩn thiết khiến cha đă phải bỏ rơi các bổn đạo tân ṭng nơi các xứ sở tuyệt đẹp sẵn sàng đón nhận Phúc Âm ấy. Lúc đó Chúa đă ban xuống cho một số đông những người đạo đức một tinh thần hăng say hết ḷng hết sức phục vụ công tŕnh thật thánh thiện và thật vinh hiển cho toàn thể Giáo Hội. Đích thực nơi đây là nơi t́m thấy ḷng nhiệt thành lo cơ đồ nói trên và là nơi gặp được những nhân vật đáng kính, cả nam và nữ, đóng góp vào sự thành công cho việc dự tính. Nhưng v́ sự kiện này tự nó đă được biểu lộ rơ ràng rồi, và v́ tôi không thể xúc phạm tới ḷng khiêm tốn nhún nhường của quư nhân vật trên, tôi chỉ có nhận xét này là cha Alexandre de Rhodes, trong ṿng vài tháng trời thôi, đă thực hiện mau chóng dễ dàng công việc của cha. Chẳng mấy chốc, cha đă đạt đủ những ǵ cần thiết để thực hiện chương tŕnh: một mặt, đă có đủ số giáo sĩ mà các giám mục tương lai sẽ được chọn ra từ số đó; mặt khác, người ta đă giúp đỡ những ngân khoản cần thiết phải tiêu dùng cho lộ tŕnh xa hằng năm, sáu ngh́n dặm đường trường (9).

Nhưng v́ những công tŕnh lớn lao cho danh Chúa cả sảng lại thường gặp những thử thách trăm chiều, sự việc xảy ra đă không tốt đẹp như cái vỏ bên ngoài của buổi ban đầu trong chuyện thương lượng của cha Alexandre de Rhodes: sau hơn 18 tháng trời nhọc nhằn đeo đuổi, đă xảy đến một số chuyện ngăn trở khiến lúc đó người ta coi như công tŕnh dự tính đă hoàn toàn bị băi bỏ. Ai cũng thất vọng. Chỉ c̣n duy ḿnh cha Alexandre de Rhodes là không mất ḷng can đảm. V́ xác tín rằng không c̣n ǵ cần hơn là việc sai gửi giám mục, cha vẫn tin là Chúa sẽ lo liệu cho các Giáo Hội nơi đó bằng cách mỗi ngày mỗi ban cho nhiều kẻ ngoại ơn trở lại đạo (10).

 

&

 

Cha Alexandre de Rhodes đă không lầm khi trông đợi: hai năm trời trôi qua từ ngày công tŕnh bị bỏ rơi, nhưng sự kiện xảy đến đă khiến ta thấy rằng mọi khó khăn có thể trở ngại con người, song không thể trở ngại sự quan pḥng của Chúa, rằng công việc xem như không thể được vào lúc nào đó lại trở nên thật dễ dàng khi đẹp ḷng Chúa. Chuyện là một vài giáo sĩ, vốn đă dấn thân cho sứ mệnh thừa sai nói trên, đi kính viếng những nơi thánh tại Roma cho thỏa ḷng đạo đức. Nhưng các ngài lại có ư, một khi tới Roma, sẽ lưu tâm t́m hiểu những ngăn trở đă khiến công tŕnh dự tính của cha Alexandre de Rhodes bị bỏ dở, và muốn coi xem có cách nào tiếp tục dự tính này chăng.

Ba điểm đă giúp các ngài cương quyết trong ư định trên là:

- Trước hết là những tin tức nhận được trong năm 1656 cho hay mọi tiến triển đức tin tại xứ Đàng Ngoài và nguy cơ mà các Giáo Hội nơi đó đang gặp phải trong cơn bách đạo, các cha Ḍng Tên là những thừa sai duy nhất đă phải ra đi.

- Điểm thứ hai là việc Đức Thánh Cha Alexandre VII lên ngôi giáo hoàng, nhiệt thành hứa là sẽ tạo mọi sự thuận lợi cho công việc truyền bá đạo Chúa.

- Điểm thứ ba là ḷng tha thiết của những kẻ đă hợp tác với nhau thời cha Alexandre de Rhodes: được tin các giáo sĩ sang Roma hành hương, họ đă thông tin, chỉ dẫn cẩn thận cho các giáo sĩ này mọi phương cách thực hiện để đạt thành công và bảo đảm với Bộ Truyền Bá Đức Tin rằng Paris có thể thực hiện được công tŕnh rất quan trọng đó v́ ích lợi các linh hồn và v́ danh dự của Giáo Hội.

Các giáo sĩ này gồm 5 vị đă tới Roma và đến tŕnh diện hồng y Alberici, thư kư Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin: được tiếp đón ân cần, các vị chỉ c̣n chờ đợi thành tựu sẽ đến. Được hồng y cho hay về các giáo sĩ mới đến và ư định của các vị, Đức Thánh Cha đă tỏ ra vui mừng và cho các vị được diện kiến. Một trong các giáo sĩ đă đọc một bài diễn văn nhỏ, tŕnh bày cùng Đức Thánh Cha hiện trạng Kitô giáo của các Giáo Hội tại Trung Hoa và Đàng Ngoài: nơi được hoàn toàn tự do rao giảng đức tin, tinh thần người dân sẵn sàng tiếp nhận đức tin, nhưng sự tiến bộ của Phúc Âm và việc trở lại của các dân tộc này bị tŕ trệ v́ thiếu thợ thừa sai và v́ rất khó có thể gửi cho đầy đủ thợ thừa sai Âu Châu đến nơi, do đường xá xa xôi vời vợi. Cách duy nhất để bảo đảm đạo Chúa tại các nơi trên cũng như để ǵn giữ các cuộc chinh phục của Chúa (11) là sớm sai gửi các giám mục sang đó. Dự định này có thể trông cậy vào nước Pháp. Chương tŕnh sai gửi ba giám mục đề ra cách đây hai năm về trước đă đ́nh hoăn lại là chỉ để trông chờ Đức Thánh Cha cho hoàn tất.

Đức Thánh Cha không những tiếp nhận ḷng nhiệt thành và bài diễn văn của các giáo sĩ, lại c̣n ngỏ lời cùng các ngài. Thiên Chúa thực đă ban cho ngài ngay từ những năm giáo hoàng đầu tiên một ơn hướng ḷng đặc biệt về việc trở lại của các dân ngoại, nhất là những dân mà các giáo sĩ vừa tŕnh bày ra. Lên ngôi giáo hoàng, ngài lo lắng thực hiện việc truyền bá đức tin, gửi bản dự án (12) mà các giáo sĩ đệ tŕnh sang cho năm vị hồng y mà ngài cắt cử lên. Các hồng y đă nhóm họp ba lần để bàn thảo sự việc. Và sau khi Đức Thánh Cha đă hiểu rơ tầm quan trọng của dự án và được các hồng y bá cáo, ngài truyền cho các giáo sĩ lo t́m giới thiệu lên ba linh mục người Pháp để được thánh hiến giám mục.

Công việc liên hệ đến sứ mệnh thừa sai của ba giám mục trôi chảy dễ dàng tại Roma như thế. Tin mau chóng đưa về Paris. Những người trước đây hai năm đă nhiệt tâm nay lại càng thêm sốt sắng v́ thành công bất ngờ này. Họ không nghi ngờ ǵ nữa khi nhận ra mọi đường nẻo và mọi dấu chứng giúp họ an tâm rằng đây chính là công tŕnh của Chúa. Người ta kháo nhau về cái thận trọng tỉ mỉ tại Roma khi phải nghiên cứu một công việc mang tầm cỡ quan trọng như thế, và t́m hiểu xem đức giáo hoàng đă nh́n nhận và chứng thực như thế nào dự án trên. Mỗi người lại thêm xác tín rằng Chúa đă muốn thực hiện công tŕnh này của ngài qua ḷng đạo đức của người dân nước Pháp (13).

Ba chuyện c̣n lại phải làm là: t́m được ba giáo sĩ để được thánh hiến giám mục, t́m được những trợ giúp cần thiết cho phí tổn cuộc hành tŕnh, và sắp đặt con đường mà ba giám mục phải đi, hoặc là đường biển hoặc là đường bộ.

 

&

 

Cha Pallu, là kinh sĩ tại thành Saint-Martin de Tours, đă được giới thiệu tại Roma lên đức giáo hoàng để lănh chức giám mục, chức vị mà trước đây ba năm mọi người trong cuộc đă nhất loạt đồng ư tại Paris năm 1653. Mặc dầu nổi tiếng khiêm nhường, ngài đă chấp nhận v́ tinh thần vâng lời và v́ phần ích lợi cao cả của công việc.

Ngài đă được nhận lănh y phục giám mục tại Roma, từ tay đức giáo hoàng. Đức giáo hoàng đă nhiệt thành khích lệ ngài chịu đựng gánh nặng của mọi khó khăn gian nan trong công việc, trao phó vào tay ngài phần rỗi của mọi dân tộc mà ngài lo việc hướng dẫn. Ngài được thánh hiến tại đền thờ Thánh Phêrô Roma, do hồng y Antôniô, chủ tịch Bộ Truyền Bá Đức Tin, dưới danh hiệu Giám mục Heliopolis: nghi lễ cử hành rất đẹp, lỗng lẫy, do Thánh Bộ chi phí theo lệnh của đức giáo hoàng. Vào dịp đó, đức giáo hoàng đă trao phó cho ngài việc điều khiển công tác to lớn này.

Tôi thấy không thể không kể ra đây một tai nạn đă xảy ra cho đức tân giám mục tại Roma: đang lúc ngài dâng Thánh lễ sắp xong trong nhà thờ Thánh Gioan des Florentins, th́ một cái sét đánh xuống, xuyên thủng mái nhà thờ, làm chết một trong những người giúp lễ ngay dưới chân ngài và gây thương tích cho nhiều người khác Phần tân giám mục, ngài không được khỏe lắm trong những ngày đó v́ mọi chuyện mới xảy đến cho ngài, đă bị sét làm nghiêng ngửa, song ngài vẫn dâng xong Thánh lễ. Tai nạn trên đă chứng tỏ thêm ḷng trông cậy của ngài nơi Thiên Chúa là Đấng ǵn giữ ngài cho ích lợi cao cả của Giáo Hội và dùng chuyện này để tăng ḷng tin cậy cho những ai muốn hiến ḿnh theo chân đức cha Pallu.

Cha Lambert de la Motte, trước là cố vấn toà án Cour des Aydes tại miền Normandie, rồi giám đốc bệnh viện Hôpital des Valides tại Rouen, được đức cha Heliopolis đề cử ra như giám mục thứ hai, cả hai người đều đă biết nhau. Cha Lambert de la Motte cũng đi Roma trong dịp đó, rất thông hiểu chuyện quan trọng này và đă đưa ra nhiều đề nghị hữu ích tạo dễ dàng cho việc sai phái các giám mục. Đó là khởi nguyên ơn gọi thừa sai tại Trung Hoa của ngài. Nh́n thấy tầm quan trọng của việc sai gửi ba giám mục và thấy Roma muốn hoàn thành việc trên, ngài đă không ngần ngại hiến thân đi theo những người sẽ là giám mục, với tính cách là một thừa sai đơn giản, v́ ngài cho là không c̣n chi cao trọng hơn và ích lợi cho phần rỗi ḿnh hơn là từ bỏ mọi ràng buộc lưu luyến tại Pháp mà ra đi sống một cuộc đời kham khổ giữa đám dân ngoại giáo. Đức cha Heliopolis, sau khi lấy ư kiến của những người hiểu sự dấn thân và nhân đức của cha Lambert de la Motte, đă không chút lo lắng khi đề nghị ngài làm giám mục thứ hai. Nhưng cha Lambert de la Motte đă ngần ngại không kém đức cha Pallu trước đề cử này. Chuyện đă dằn co lâu dài giữa ḷng hăng say và tính khiêm nhường của người này kẻ kia. Tuy nhiên, cha Lambert de la Motte sau cùng đă cúi đầu trước nhu cầu của Giáo Hội và các dân tộc. Đức khâm sứ toà thánh Picolomini, tại Pháp, được cho biết về đời sống và đạo hạnh của cha. Ít lâu sau th́ cha Lambert de la Motte nhận được thư tông toà bổ làm giám mục, hiệu toà Beryte, được đức tổng giám mục thành Tours thánh hiến tại Paris.

C̣n lại là chọn được một giám mục thứ ba. Đức cha Heliopolis đă để mắt đến một người trong số các giáo sĩ đă hiến ḿnh theo ngài cho sứ mệnh thừa sai mà ngài xét là có khả năng hơn cả trong chức vụ trọng đại này. Ngài đă không lầm khi chọn cha Ignace Cotolendi, người thành phố Aix, mà từ nhiều năm rồi làm cha chính xứ một họ đạo khá quan trọng tại thành phố của ngài. Mọi người vốn đều bằng ḷng cha Ignace Cotolendi, ngài luôn thể hiện ḷng nhiệt thành đạo đức, sự an b́nh và nhân đức cần để nên người tông đồ: chính nhờ vậy, khi được đề nghị lên, đức giáo hoàng liền chấp nhận ngay. Sau khi bài sai tông toà gửi đến, cha đă được thánh hiến tại Paris, dưới tước vị giám mục toà Metellopolis. Đức tổng giám mục Rouen, lúc đó là chủ tịch các giáo sĩ, chủ tọa lễ Thánh hiến cha Cotolendi, với sự hiện diện của sáu giám mục khác mà đức tổng giám mục đă mời đến cho thêm phần danh dự.

Từ hôm ấy, đức tổng giám mục Rouen vẫn tiếp tục tạo thuận lợi cho sứ mệnh thừa sai này mà toàn nước Pháp đều đă biết đến: đức cha Heliopolis đă phát hành một tài liệu nói rơ nguyên nhân công việc của ngài và những ư định của Toà Thánh. Nhiều giáo sĩ phấn khởi muốn đi theo đức cha để lo công việc rất đáng kính như thế. Nhưng đức cha đă cẩn thận để tâm suy nghĩ đắn đo trong việc tuyển chọn họ. Và để được yên tịnh suy tính, ngài đă đem các giáo sĩ đến một nơi, cách Paris 10 dặm, nơi đó ngài thử thách ơn gọi của họ cũng như để chuẩn bị cho họ bằng việc tĩnh tâm, suy niệm, thử lo việc thừa sai trong các làng mạc lân cận, tập tành công việc đời sống tông đồ. Sự thử thách trên là điều quan hệ, v́ không c̣n ǵ nguy hại hơn cho bằng việc sống bừa băi khi vào một sứ vụ khó khăn và đặc biệt, nhất là liên quan đến phần rỗi tha nhân và phần rỗi chính ḿnh. Cuộc tĩnh tâm này đem lại ích lớn cho sứ mệnh thừa sai của ba giám mục. V́ chính nhờ dịp này, các giáo sĩ nào mà không ai biết hạnh kiểm, cách sống của họ và không tập tành cho họ đời sống đạo đức để có thể đảm đương nhiệm vụ, đều không được tiếp nhận vào sứ mệnh thừa sai. Và vào dịp tĩnh tâm này, một dự án thiết lập lên một chủng viện đă được thành h́nh, nhằm chuẩn bị các giáo sĩ sẽ được Chúa gọi lo việc cải hoá các xứ sở ngoại giáo. Đức cha Heliopolis đă đặt ra một mẫu mực, nội quy đời sống phải theo, nếu Chúa Quan Pḥng cho có dịp xây dựng được chủng viện này (14).

Những người đạo đức, phần lớn là quư bà, đă vận động tại Paris t́m tài trợ nâng đỡ cho đời sống từng đấy các giám mục và giáo sĩ đi theo. Chỉ cần nh́n vào khoản chi phí cần dùng trong công tŕnh này là người ta đă đủ kinh ngạc và t́m cách từ chối rồi. Nhưng nếu ai sợ hăi như thế th́ đă là nghi ngờ sự lo liệu của Chúa dành cho công việc của ngài v́ phần ích Giáo Hội, và nghi ngờ ḷng nhiệt thành của những người dân Paris đạo đức đă thực tâm nâng đỡ sứ mệnh thừa sai. Hiệu quả của đức tin và ḷng bác ái của những người đạo đức này được ca tụng khắp nơi trên trái đất: đó là chính ba giám mục đă chứng thực. Mọi nâng đỡ rất cần thiết cho các ngài như thế chỉ có thể t́m thấy qua tấm ḷng bác ái của dân Paris. Một trong ba vị giám mục đă quyết định đem cho người nghèo mấy trăm quan tiền ê-cu (15) đầu tiên do người ta dâng cúng, tin vào lời hứa trong Phúc Âm rằng của cho đi sẽ trở lại gấp trăm lần. Mà sự thực đă xảy ra như thế, lại thêm được xác tín rằng Chúa không bỏ rơi các ngài. Vị giám mục đă cho tiền người nghèo cũng như tất cả mọi người đă cảm nghiệm rơ từ ngày ấy rằng là ích lợi hơn hết cả khi bỏ ḿnh lo việc sáng danh Chúa và vâng phục hoàn toàn ư Đấng Quan Pḥng.

Cái khó khăn hàng đầu là việc các giám mục sẽ phải theo con đường nào. Không dễ quyết định được chuyện này khi chúng tôi chỉ hiểu biết rất sơ xài về các xứ sở sẽ đến rao giảng (16). Trước tiên, chúng tôi nghĩ là có thể theo đường người Bồ Đào Nha, hy vọng được đi trên tàu bè của họ. Do đó, chúng tôi đă xin chiếu khán, nhưng người Bồ Đào Nha xét là v́ lư do quốc gia đă không chấp thuận điều chúng tôi yêu cầu.

Là chuyện vô ích khi t́m đi trên tàu Hoà Lan mà Hăng Đông Ấn (17) hằng năm vẫn gửi người và hàng đi. Hơn nữa, họ chủ trương là chỉ chuyên chở những ai đang phục vụ họ mà thôi. Chúng tôi cũng gặp những khó dễ tương tự về phía người Anh, mặc dù trong cuộc hành tŕnh (sau này) chúng tôi đă nhận được sự giúp đỡ ân cần của những người nước này tại các chốn họ đă có cơ sở (18).

C̣n lại mỗi một con đường là vượt biển Địa Trung Hải, rồi lên đường bộ đi qua Thổ Nhĩ Kỳ: nhưng xem ra con đường này có vẻ chông gai nhất, lại lâu nhất, nhiều nguy hiểm và rất tốn phí. Thêm vào đó, người ta c̣n sợ là sau hơn hai ngàn dặm đường trường lại bị rơi vào tay các dân nơi xứ đó, là những người có thể sẽ đối nghịch với công tŕnh của chúng tôi đang thực hiện.

Các khó khăn như thế khiến chúng tôi nghĩ tới việc xử dụng tàu bè của Hăng (19). Hăng vẫn buôn bán với đảo Madagascar, nay gọi là đảo Dauphine. Việc này xem ra dễ dàng, v́ tàu bè của Hăng có thể đi từ cảng Madagascar đến cảng Surate và các cảng Ấn Độ khác, vốn dành tự do cho mọi quốc gia và dễ dàng cho việc thương mại. Nhưng Hăng này lúc đó c̣n yếu, không dám đi xa hơn đảo Madagascar. Bởi thế, chúng tôi phải điều đ́nh với Hăng, qua đó thử liều một dự tính khác là xây dựng hai đội thương thuyền có thể vượt biển ít nữa là đi tới tận cảng Surate (20). Như vậy, Hăng sẽ có thể bắt đầu việc buôn bán giữa miền Ấn Độ Dương và Pháp (21).

Một vài nhân vật chuyên về hàng hải thương mại xem xét vấn đề này và cho là rất có lợi cho xứ Pháp. Họ nghiên cứu đưa ra các đề án cho Hăng, và khi đă được phép của nhà vua cũng như các thư chứng thị của Thượng Viện, rất đông người thuộc các giới đă muốn góp phần vào công chuyện này. Ai ai cũng hân hoan nghĩ tới việc phải mở rộng đạo Chúa và đem vinh dự nước Pháp đến tận những dân tộc xa xôi nhất (22). Quyết định được lấy ngay lúc đó để xây dựng đội thương thuyền cần thiết cho cuộc hành tŕnh. Công việc xây cất thương thuyền chủ yếu của thương đội và mọi sự cần cho thương hành đoàn được xúc tiến bên Hoà Lan (23). Ngay khi thành h́nh, ngài De Thou, lúc đó là sứ thần của nhà vua đối với các quốc gia, liền lấy tên nhà vua mà đặt cho thương thuyền, tàu Saint-Louis, và treo cờ quốc gia Pháp lên, để cho biết là thương thuyền sẽ dùng để phục vụ nhà vua.

Khi mọi sự đă sẵn để đem tàu về cảng Le Havre của Pháp, nơi chúng tôi sẽ xuống đó ra đi, th́ một vài sĩ quan hải quân Amsterdam đă chận thương thuyền lại và cầm giữ trong cảng của họ. Chúng tôi đă hết sức thương lượng để được tự do, v́ mùa đi biển đang đi qua. Ngài De Thou được tin liền sang tận Amsterdam, và với mọi lịch thiệp ngoại giao, phiền trách rằng chuyện sẽ nên rắc rối v́ họ đă cầm giữ thương thuyền mang tên nhà vua nước Pháp. Sau cùng thương thuyền được trả tự do với lời bảo đảm là sẽ không xử dụng vào việc chiến tranh chống phá công việc của các quốc gia.

Trong khi chờ đợi thời tiết thuận tiện để căng buồm về Pháp, tàu bị nạn ch́m tại Texel trong một cơn băo tố, cùng với nhiều tàu bè khác. Tai nạn trên đă gây thiệt hại nhiều cho Hăng non trẻ. Người ta đă giữ tàu quá lâu giữa kỳ băo táp dữ dội nhất của mùa đông là lư do khiến tàu đă bị đắm. Người của Hăng nghĩ là họ có lư do để kiện tụng chống một cách thức làm việc đă vi phạm tự do công cộng và yêu cầu bồi thường thiệt hại họ phải chịu mà không rơ nguyên nhân. Nhưng v́ con người vốn dễ gây thiệt hại hơn là đền bù thiệt hại, người của Hăng vẫn chưa đạt đến cùng mục tiêu của họ, cho dù với lư này lẽ nọ đưa ra để làm sáng tỏ sự công b́nh.

Thế là chuyện buôn bán đường biển với vùng Ấn Độ Dương bị chậm trễ lại, tan một dự đồ đă được suy tính và thực hiện cẩn thận mà tưởng đă phải đem lại những kết quả mỹ măn.

Nhưng biến cố xảy tới đă giúp chúng tôi nh́n ra rằng Đấng Quan Pḥng đă để xảy đến chuyện trên là chỉ có ư dành chương tŕnh rất cao thượng và rất vinh dự cho nước Pháp ấy lại vào thời gian thuận lợi hơn và vào những bàn tay mạnh mẽ hơn. Lần thử nghiệm của chúng tôi đó thực đă được trả công quá trọng hậu, nếu nó đă đem lại một vài ư tưởng cho người giờ đang thi hành quyền bính của đức vua chúng ta với sự chuyên cần của những người thực sự là có khả năng trong vương quốc về vấn đề thương mại.

Tàu đắm trôi mất, không những thiệt tḥi cho Hăng mà c̣n cho cả các giám mục được sai đi Trung Hoa nữa, v́ các ngài nghĩ là sẽ xử dụng nó để đến nơi thừa sai. Các ngài lại gặp lại cái nỗi khó giải quyết rằng sẽ phải đi đường nào đây. Con đường mà các ngài đă tưởng là dễ dàng nhất th́ đă mất do sự quan pḥng của Chúa mà con người không thể hiểu thấu, nhất là đối với kẻ thừa sai. Kẻ thừa sai phải chuẩn bị đón nhận hằng ngàn ngàn thử thách, thường gắn liền trong những cơ đồ to lớn như thế. Họ phải biết vâng phục và đón nhận mọi sự xảy đến cho họ.

Nơi đây, tôi không bàn tới những suy nghĩ khác nhau của đức cha Heliopolis sau tai nạn bất ngờ trên nhằm t́m cách đưa các thừa sai của ngài đến Trung Hoa. Tôi cũng không bàn chi tới giải pháp sau cùng của ngài đă mau chóng và tin tưởng chọn lựa. Chuyện ấy liên quan đến kư sự đặc biệt về cuộc hành tŕnh của ngài mà người ta có thể thực hiện trong ít lâu nữa. Mục đích của tôi chỉ là thực hiện kư sự về đức cha Beryte mà thôi. Do đó, tôi tiếp tục kể lại nơi đây những chuyện liên quan đến ngài.

Năm tháng sau vụ đắm tàu, đức cha Beryte đă được đức tổng giám mục thành Tours thánh hiến tại Paris, như tôi đă kể lại. Ngài đă không chậm trễ chuyện phải lên đường ra đi, nóng ḷng v́ ước ao đem ánh sáng Phúc Âm đến những xứ sở bao la rộng lớn mà từ bấy lâu nay ch́m ngập trong u tối ngoại giáo. Ngài tin rằng v́ ích lợi cho sứ mệnh thừa sai tại Trung Hoa, cần phải có ít là một giám mục ra đi đường bộ, dù lắm kham khổ nhọc nhằn. Thực thế, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin vẫn mong chờ, v́ lợi ích của các sứ mệnh thừa sai, có ai sẽ thử dùng con đường đi bộ này. Và nhờ kinh nghiệm trải qua, nẻo đường bộ ấy sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mục tiêu là để được hoàn toàn độc lập đối với các quốc gia đang thống trị trên đại dương, Thánh Bộ khi có dịp sẽ sai các thừa sai cho Trung Hoa hoặc cho các xứ sở lân cận đi theo con đường này (24).

Đức cha Beryte đă muốn dấn thân thực hiện ư định ấy. Con đường này có những cái bất lợi của nó, nhưng cũng có những cái thuận lợi của nó. Riêng về những cái cho người thừa sai: quen đi từ từ với cái mệt nhọc đường trường, đi cho có thái có độ, nghỉ ngơi từng chặng đường mỗi lúc đừng chân chốn này chốn nọ hoặc xứ này xứ kia, thích ứng với khí hậu các nơi, với mọi thứ thức ăn thực phẩm; cũng như là để tập tành suy luận phán đoán và thu lượm kinh nghiệm nhờ thường xuyên gặp gỡ các thợ thừa sai trên đường đi, mà ḿnh có thể thăm hỏi và học hỏi thật nhiều những điều cần thiết để biết cư xử với khách ngoại quốc, với người ngoại giáo và với những kẻ thù khác của đạo chúng ta. Đường biển th́ dẫn thẳng một mạch các giám mục và thừa sai đến tận miền Ấn Độ, không để các ngài có được cái kinh nghiệm công phu này, kinh nghiệm thật hữu ích dọc đường trường dài hơn hai năm trời ḍng dă. Tập Kư Sự này từ đây sẽ tường thuật lại cách thức và diễn biến hành tŕnh. Tác giả chủ yếu là t́m đem hữu ích lại cho những ai muốn theo các thừa sai trên lối đường này, biết trước những thiếu xót và những lầm lỡ có thể gặp phải, những ư kiến cần theo và cách thức cần phải giữ.

 

& & &

 

 

 

<<<<<

Chương 2

Hành tŕnh của đức cha Beryte từ Paris đến Hispaham

 

Hoàn tất 8 ngày tĩnh tâm sau khi được thánh hiến giám mục, đức cha Beryte chỉ c̣n nghĩ tới một điều là rời nước Pháp. V́ theo ngài, Chúa sẽ tính toán tất cả thời giờ mà ngài c̣n nán lại, chưa đến nơi thừa sai của ḿnh là xứ Đàng Trong, các tỉnh Chiêm Thành và Cam Bốt, ba tỉnh nam Trung Hoa, đảo Hải Nam và các nơi khác (1). Ngài ra đi kín đáo, không cho một ai hay. Ngài buộc ḷng phải hành động như thế để khỏi bị người ta ngăn trở, chống đối việc lên đường của ngài. Cũng nhờ đó, ngài tránh được nhiều phiền phức trong giới người thân thuộc và bạn hữu không bằng ḷng việc ngài rời nước Pháp. Ngài đă giúp họ khỏi phải ân hận sau đó v́ đă không thuyết phục được ngài thay đổi quyết định theo tiếng gọi của Chúa và vâng phục Giáo Hội đă sai ngài sang Trung Hoa.

Người đời thực sự thấy buồn trong ḷng trước một con người, vốn nhiều công nhiều việc và được vị nể v́ tài năng kinh nghiệm, lại chấp nhận một hành động liều lĩnh: từ bỏ mọi ưu thế ích lợi riêng, ra đi đến giữa đám dân ngoại đạo, cách xa quê hương hằng bốn, năm ngàn dặm đường, và dấn thân vào một cuộc sống liều ḿnh giữa mọi nguy nan, chẳng có một niềm hy vọng nào khác hơn là chịu đau khổ rất nhiều v́ Chúa.

Đức cha Beryte không hề nghĩ là phải trả lời mọi chống đối của người thân về công cuộc của ngài: ngài đă để lại một bài học thật đẹp cho những ai tự hiến theo ngài biết phải cư xử ra sao trong t́nh huống như trên.

Ngài rời Paris ngày 18 tháng Bảy với một giáo sĩ gốc thành phố này (2) và một người tôi bộc. Kinh nghiệm cho biết rơ rằng các người tôi bộc mang theo từ Pháp, nếu họ không có nhân đức vững vàng, thường lại gây phiền toái nhiều hơn là phụ giúp đỡ đần.

Ngay lúc vừa đến Lyon, đức cha Beryte bị sốt không ngớt, phải nằm liệt trên giường suốt 52 ngày. Suốt hai ngày liền, ngài không c̣n biết sự ǵ; nhưng Chúa đă cho ngài thấy là chỉ có Chúa là Đấng làm cho chết và làm cho sống: chính vào lúc mà đức cha đă bị thế gian từ bỏ và mọi người chỉ c̣n chờ giây phút ngài sang một thế giới tốt lành hơn, th́ đột nhiên ngài khỏi hẳn cơn sốt, chỉ c̣n cảm thấy mệt mỏi trong người mà thôi. Chuyện xảy ra như vậy, người ta nói được với Thánh Tông Đồ rằng: «Quasi morientes, ecce vivimus» (3).

T́nh trạng khốn cùng mà đức cha đă sống qua giúp ngài cảm nghiệm sự từ bỏ hoàn toàn mà mỗi người cần phải thực hiện liên tục để phó thác chính con người ḿnh cho Chúa, khi dấn thân vào các chức vụ tông đồ. Ông y sĩ đă rất đỗi ngạc nhiên thấy đức cha được khỏi bệnh như thế, đến nỗi chẳng c̣n dám tin vào mắt ḿnh nữa. Không nghi ngại chi, ông cho là đă do ơn trên hơn là do thuốc thang y học đem lại. Đức cha Beryte đă nhận Của Ăn Đàng và Phép Xức Dầu Kẻ Liệt trong t́nh trạng không c̣n thưa đáp được nữa, và ngài cũng đă xin người ta chôn cất ngài như những kẻ nghèo trong bệnh viện, không phúng điếu không danh dự.

Cảm thấy sức khỏe b́nh phục, ngài rời Lyon không chậm trễ. Vừa đứng dậy được, ngài liền xuống thuyền trên sông Rhône; và v́ vẫn c̣n yếu, ngài dùng vơng che (4) để đến Marseille, gặp một giáo sĩ quư mến của cố giám mục thành Toulon, đức cha Pingré, và là người thuộc thành phố này (5). Giám mục Toulon thường mời giáo sĩ trên ghé chân lại địa phận ngài.

Cái hiền hoà của quê hương, cái hy vọng bổng lộc và công việc chức vụ (6), những lời khuyến dụ của giám mục ḿnh, và có thể cái viễn tượng khó khăn nơi kẻ dấn thân lúc sắp khởi sự một cuộc hành tŕnh ḍng dă như thế, tất cả có thể làm lung lay ư chí của giáo sĩ này nếu như quyết tâm của ngài không xây dựng trên Chúa. Trước những lời tha thiết của giám mục Toulon, giáo sĩ này chỉ đáp lại bằng một lời duy nhất rằng nếu đức cha ra lệnh, ngài sẽ vâng lời ở lại. Nhưng vị giám mục khôn ngoan và đức độ này vốn nhận biết ơn gọi của giáo sĩ ḿnh, đă không muốn cản trở ngài.

V́ thời tiết và dịp thuận tiện riêng cho việc đi biển đă đến, đức cha Beryte và các giáo sĩ của ngài rời cảng Marseille ngày 27 tháng Mười Một năm 1660.

Buổi đầu trên biển cả thật nguy hiểm v́ gặp một trận băo vừa lớn lại vừa lâu ngay lúc họ vừa ra khơi. Hơn nữa, họ không chịu nổi cái dập vùi xô đẩy của con tàu bởi v́ chưa hề quen đi biển bao giờ. Trong cơn nguy kịch, viên thuyền trưởng không hề tỏ ra sợ hăi, đợi chờ qua đêm, bằng không cũng như đem tàu vào đá ngầm đảo Sardaigne để bị nạn không đường cứu chữa. Nhưng Chúa kéo họ qua khỏi tai biến đầu tiên ấy. Họ tiếp tục hải hành để đến đảo Malte vào ngày 23 tháng Chạp.

Được báo trước, viện trưởng nhà các cha Ḍng Tên cho một cha người Pháp ra đón đức cha Beryte khi ngài lên khỏi tàu và rước ngài về nhà các cha. Đức cha đón nhận nghĩa cử của các cha ḍng và lưu lại đó 18 ngày, giữa ḷng bác ái ân cần của các cha ḍng này. Trong thời gian chúng tôi nằm tại đảo, chúng tôi đă đi thăm viếng hang Thánh Phao-lô và nhà thờ dâng kính ngài, cách thành phố Malte hai dặm đường.

Giám mục đảo Malte hay tin đức cha Beryte đến, liền gửi lời chúc mừng và kính trao ngài tất cả những ǵ thuộc giới hạn và quyền năng của ngài. Chính giám mục đảo Malte đă đích thân đến thăm hỏi đức cha Beryte và xin ngài chủ tọa lễ Truyền Chức Thánh cho 70 người. Ngài Quan Lớn (7) của đảo cũng đối với đức cha lịch lăm như thế. Về phần ḿnh, đức cha Beryte đối với họ rất lịch thiệp, đến thăm viếng từng người, và từ giă họ để rời đảo Malte ngày lễ Thánh Toma.

V́ tàu gặp gió ngược lúc rời cảng, ngài Quan Lớn đă tử tế cho hai chiếc thuyền ra kéo phụ tàu chúng tôi đi. Người ta đă không quên cho nổ đại pháo tiễn đưa.

Tàu cặp cảng muối Chypre ngày 28 tháng Chạp. Tới nơi, chúng tôi được biết là có các cha ḍng Thánh Phanxicô cư ngụ tại đó và trên đảo có một tổng giám mục và ba giám mục; trong số đó có hai vị nh́n nhận quyền Toà Thánh (Roma). Dân đảo sống cực kỳ vô tri vô minh (8) và rên xiết dưới chế độ độc tài.

Chúng tôi rời đảo Chypre ngày 5 tháng Giêng năm 1661, rồi 11 ngày sau th́ tới Alexandrette. Theo ư kiến riêng, nơi này khí hậu rất độc v́ các ao đầm chung quanh đó và những ai cần ở lại th́ nên ở lại trên tàu cho đến khi có dịp đi Alep. Nơi này có một nhà thờ và một cha Ḍng Đất Thánh và một phó lănh sự Pháp.

Từ Alexandrette, chúng tôi đi Bailan, một ngôi làng cách đó 4 dặm đường.

Ngày 21 tháng Giêng, chúng tôi tới Antioche, nơi có một số Kitô hữu ly khai. Thành phố này nằm trên ḍng sông Oronte, cách biển khoảng 6 dặm.

Chúng tôi học biết được là ngôi nhà thờ xưa đặt ngai của Thánh Phao-lô, nay là một giáo đường Hồi giáo. Nh́n cảnh phạm thượng trên, ḷng chúng tôi thật đau xót. Suốt những ngày chúng tôi đi trên đất Thổ Nhĩ Kỳ, chúng tôi xót xa nh́n dân đạo Mahomed (9) xâm lấn trên Chúa Giêsu Kitô ở những nơi huy hoàng mà họ chiếm của các Kitô hữu. Giữa những cảnh thê lương ấy, khó cầm được nước mắt tiếng than, mỗi người chúng tôi dâng ḿnh cho Chúa mà đền bù sự công b́nh và thiệt hại thầm kín trong trái tim Ngài, v́ sự ô nhục mà Kitô giáo đă phải chịu khi bị giầy xéo, lăng mạ, do sự phạm thánh của giáo phái vô đạo này; từ nay sắp đi, chúng phải chịu hậu quả ḷng kiêu ngạo và vô đạo của chúng (10).

Chúng tôi rời Antioche, đi bộ suốt ngày không nghỉ. Khi chúng tôi thấy gần tới địa điểm v́ nhận ra ánh sáng đèn đuốc của ngôi làng mà chúng tôi phải nghỉ lại, th́ tên lính bộ (11) dẫn đường lại đi xa khỏi lộ tŕnh, v́ bị lạc hay v́ mánh lới, đưa chúng tôi đi một hồi lâu trong đêm tối. Chúng tôi chẳng c̣n biết ḿnh đang đi đâu nữa. Tên dẫn đường cho chúng tôi cắm lều tại một nơi rất hẻo lánh, giữa chốn thiên nhiên như vậy.

Những ai biết suy nghĩ bắt đầu nghi ngờ tên dẫn đường này đă thông đồng với mấy tên Thổ khác, cho nhau điểm hẹn, để làm hại chúng tôi. Do đó chúng tôi bắt tên này phải rời khỏi cái nơi đáng ngờ vực trên. Chúng tôi bỏ nơi ấy, liều ḿnh chịu đi lạc, t́m chốn nào chắc chắn mà chúng tôi may ra sẽ gặp được. Chúng tôi đi như vậy bao lâu mà các con ngựa c̣n chở nổi chúng tôi; nhưng chúng đă mệt mỏi, chúng tôi dừng lại trên một nơi cao. Mặc dù trời cực kỳ lạnh, chúng tôi không chịu cho tên dẫn đường nhóm lửa lên, v́ đó là cách báo cho quân trộm cướp và bọn đồng lơa khám phá ra chúng tôi. Suốt đêm chúng tôi cứ phải thay phiên nhau phập phồng canh chừng. Ở nơi đó, chúng tôi đă nếm thử qua cái cảnh quán trọ của xứ sở này: bữa cơm tối chẳng thành vấn đề với chúng tôi, cũng chẳng có lấy một giọt nước thấm mát sau suốt một ngày một đêm mệt nhọc.

Chúng tôi tiếp tục đi khi ánh trăng vừa đủ soi đường chân ngựa.

Vào khoảng trưa th́ chúng tôi tới được Anjare. Nghỉ lại đó cho đến hôm sau th́ chúng tôi xuống Alep, ngày lễ Thánh Phao-lô Trở Lại. Chúng tôi đến thẳng cộng đồng người Pháp, là người chúng tôi, tại nhà ông lănh sự, lúc đó là ngài Piquet. Công việc của lănh sự quán rất đáng kể tại chốn này mỗi khi ngài lănh sự, với tư cách cần thiết, đứng ra lo công chuyện. Chúng tôi làm chứng cho thế giá uy tín của ông, không những giữa giới Kitô hữu mà ông là người bao bọc che chở mà c̣n giữa đám dân Thổ và giới chức trách quan quyền khác của thành phố.

Biết tin, ông ta liền cho người dâng đức cha Beryte căn nhà và văn pḥng của ông ta để đức cha xử dụng. Lịch lăm như thế, ai mà dám từ khước, chúng tôi phải nhận lấy cả căn nhà cả văn pḥng suốt thời kỳ chúng tôi ở lại thành phố này. Ngài lănh sự khi hay tại sao chúng tôi đă rời nước Pháp và để tỏ ra kính phục sứ mệnh thừa sai chúng tôi, đă đối xử bác ái lên gấp đôi, giúp đỡ chúng tôi mọi thứ trong giới hạn quyền hành và uy tín của ông ta. Do từng trải, ông ta biết rơ đâu là ḷng thành của phần lớn dân Thổ tại các nơi của người Kitô giáo và biết là người ta không thể cẩn thận cho đủ đối với dân này. Bởi v́ với họ, lừa đảo được là vinh quang, gây hấn công khai bất công là việc tốt mà họ có thể thực hiện được. Do đó, chính ông ta đứng ra lo dàn xếp trên giấy trắng mực đen với tên binh bộ là xếp trưởng và chủ của nhóm kỵ binh mà lúc chúng tôi đến đă sắp sẵn để lên đường. Người «Phăng» (12), nói theo ngôn ngữ người Thổ, tức là những Kitô hữu Âu Châu đi ngang qua xứ họ, đều được họ coi là những người giầu có. Bởi thế họ t́m đủ mọi cách để tấn công và làm hại những khách đường này mà lấy tiền lấy bạc. Người «Phăng» do đó buộc ḷng phải làm ra vẻ nghèo khổ nhất có thể: từ cách ăn mặc, hành lư hoặc trong cách tiêu xài, không bao giờ tỏ ra có tiền của, chỉ sài những đồng tiền mạt như cách kẻ nghèo vậy. Chúng tôi chẳng thấy khó ǵ khi phải giả làm kẻ nghèo như vậy; bởi v́ ngoài cái lợi bề ngoài nghèo túng, chúng tôi c̣n được cái danh dự sống nghèo nàn nữa v́ đó rất thích hợp với chức việc của chúng tôi.

Nhờ được ông lănh sự gởi gắm, chúng tôi chiếm được cảm t́nh của tên xếp trưởng nhóm kỵ quân: suốt cuộc hành tŕnh đến tận Babylone, hắn ta luôn luôn là người che chở bảo vệ đặc biệt cho chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi lại chinh phục hắn bằng quà cáp này nọ.

Nói tóm tắt, nếu có một nơi nào trên thế gian này mà ta phải sống lanh lợi, ăn uống độ chừng, tỉnh táo trông coi, ngủ nghỉ rất ít, mắt luôn luôn phải mở rộng và luôn luôn phải gan dạ, th́ chính trong những khi đi với đoàn hành tŕnh (13) này. Ở đây, mỗi người phải biết để ư bạn đường ḿnh, coi như hắn là một tên trộm. Ở đây, cái khác biệt về tôn giáo, về phong hóa, về ngôn ngữ, về đất nước, sản xuất ra một thứ lo sợ bị lừa đảo không ngơi.

Trước khi ra khỏi Alep, chúng tôi đă hỏi thăm các cha thừa sai về t́nh trạng tôn giáo ở thành phố này. Dưới sự che chở của ông lănh sự Piquet, các cha có được phương tiện hành sự. Người ta không thể quên công ơn của ông ta là người đầu tiên đă dùng quyền thế và khôn ngoan để xây dựng những việc cho đức tin Công Giáo tại các khu vực ấy; ông đă ǵn giữ cho các thừa sai những đặc quyền đă được thỏa thuận tại La Porte (14), nâng đỡ họ bằng các giúp đỡ vật chất riêng và che chở họ khỏi những phiền toái thường xuyên gặp phải ở chốn này. Ngoài chuyện đó ra, trong mọi hoàn cảnh, ông ta c̣n là cha của kẻ nghèo đối với người Pháp cũng như đối với những người ly khai. Do đó, dười thời lănh sự của ông, người Kitô giáo được hưởng nhiều tự do, điều khiến mọi dân tộc càng thêm yêu mến đất nước chúng ta. Các cha Ḍng Tên, Ḍng Phanxicô Capuxanh, Ḍng Cát-minh Chân-không (15), đều có nhà cửa trong thành phố này từ bảy hay tám năm rồi. Họ làm việc rất hữu hiệu và đoàn kết với nhau. Thật không ǵ dễ dàng cho bằng việc đưa người ly khai trở lại đức tin tinh tuyền, nếu như các đấng bề trên (các hội ḍng) biết hoà thuận với nhau, đừng lầm lạc v́ theo lợi ích riêng, t́m theo một cái nhóm nào xuất sắc hơn cả. Đó là điều các thừa sai áp dụng từ thời ông lănh sự Piquet đến nỗi đă loại trừ một vài phần tử trong họ là một bằng chứng đầy đủ rồi (16).

Các thừa sai nơi đây sống rất nghèo khổ, v́ họ không hề nhận ǵ của các Kitô hữu cũng là những kẻ rất nghèo nàn khốn khổ. Các thừa sai rất ít khi được Âu Châu trợ cấp. Tuy vậy, công việc của các thừa sai rất nặng, v́ phải giảng dạy tín hữu từ nhà này sang nhà nọ, biết rằng họ không được phép có một nhà thờ công cộng nào. Là việc vừa dễ dàng lại vừa công bằng, phải giúp đỡ sứ mệnh thừa sai nơi đó, phần v́ không quá xa chúng ta (tức Âu Châu), phần v́ chính từ những nơi này mà đức tin chân chính đă đạt tới chúng ta. Bởi thế, là chuyện công b́nh phải lo phương tiện xây dựng đức tin nơi đây cũng như nâng đỡ những cơ hội đưa tới mà chưa bao giờ được thuận lợi cho bằng lúc này.

Trước khi nhập vào đoàn hành tŕnh, chúng tôi phải tháo bỏ mọi thứ là của Pháp ra, ăn mặc như người Thổ và đeo khăn Thổ lên đầu. Cái loại khăn này chưa hẳn đă tiện lợi hơn mũ nón khi hành tŕnh, song nó đem lại ân huệ hơn, nhất là v́ loại khăn ấy rất mắc.

V́ tôi chỉ chủ yếu viết tường thuật này để giúp ích cho các thừa sai sẽ được gọi đi theo chúng tôi, hay là cho những ai muốn thực hiện cuộc hành tŕnh này, nên tôi sẽ ghi lại những chi tiết về cách thức khi trẩy đi trong đoàn hành tŕnh (17). Mọi sự xem ra không mấy quan hệ; nhưng phải biết rằng ḿnh đă giúp ích rất nhiều cho một kẻ lữ hành, khi cho họ chỉ một ư kiến mà thôi. Lạc lơng gần như trơ trọi một ḿnh giữa nơi ngoại đạo, ngỡ ngàng thấy chính ḿnh không dám mở miệng hỏi han v́ sợ tỏ ra là ḿnh chẳng biết ǵ cả.

Từ Alep đến Babylone là một hành tŕnh khắc nghiệt nhất v́ phải trải qua sa mạc. Đây là quy luật phải giữ: sau khi đă thỏa thuận điều kiện với người hướng dẫn đoàn, phải tới điểm hẹn tập trung thật sớm. Từ sáng sớm đă phải lên lưng ngựa hay lạc đà, và chỉ đặt chân xuống đất vào chiều tối tại nơi dừng chân, chấm dứt một ngày đường và để ăn tối là bữa duy nhất dọn ra. Tuy nhiên, cần chuẩn bị, trước khi lên đường, bánh khô và ít trái cây để ăn đỡ mệt suốt cuộc hành tŕnh một ngày dài. Duy nhất vào buổi tối người ta mới làm bữa ăn, được vui mừng đốt lửa lên và làm bếp. Bếp th́ chỉ là nấu cơm với bơ mà thôi. Cái bất tiện nhất là t́m ra củi khô trong chốn sa mạc này. Chúng tôi dùng củi cây mê điệp (18) là loại cây quen thuộc và rất thơm mà suốt nhiều ngày hành tŕnh, người ta gặp đầy rẫy. Khi không c̣n thứ cây này nữa, th́ dùng phân lạc đà khô dưới nắng, thu lại cẩn thận ngay khi vừa tới địa điểm dừng chân của đường hành tŕnh. Cái chất này bắt lửa dễ dàng, đủ để hâm nóng đồ ḿnh muốn ăn. Trong nơi sa mạc này, đừng t́m kiến một mái nhà nào khác hơn là cái lều (19) mang theo trên lưng lạc đà.

Cứ như thế, mỗi ngày người ta phải ngủ giữa thiên nhiên: điều an ủi là khỏi phải chịu cái khó ăn khó ở của hành khách, và phải phiền hà căi cọ về chuyện tiền nong phải trả (20).

Chúng tôi có được cái lợi là hành tŕnh vào mùa đông nên đi được vào ban ngày. Ở các mùa khác th́ chỉ đi ban đêm mà thôi, đó là điều rất đầy đọa cho ai sống một lối sống mực thước. Bởi v́ không thể nào nghỉ ngơi được: ban đêm th́ phải đi, ban ngày th́ bị mặt trời và cát bỏng thiêu đốt. Chúng tôi thoát khỏi cái đầy đọa này, nhưng bị cái khổ ải khác, dù nhẹ hơn, là mưa và lạnh. Suốt ngày, người ta chống đỡ mưa và lạnh bằng vài thứ đồ len làm bên Ba Tư mà được đem đến bán mọi nơi bên Á Châu cho khách du hành xử dụng. Suốt đêm, người ta trú ngụ trong những căn lều mà thường bị đóng băng và trở thành cứng ngắc v́ tiết lạnh. Phải chờ nắng lên làm tan băng, chủ nhân mới có thể cuốn lều ḿnh đem theo.

Một trong những bất tiện của cuộc hành tŕnh chúng tôi là thiếu nước. Ở sa mạc này, nước hiếm v́ không có rạch có suối. Con người đă cố gắng bù đắp vào đó bằng cách đào giếng mà các người dẫn đường của đoàn biết t́m ra giữa chốn hoang vu này, nơi mà dấu vết đường đi chẳng mấy chốc lại bị xóa mờ v́ gió tung cát bụi khắp tứ phía. Ngay khi nhận ra một giếng nước, họ liền chuẩn bị cả đoàn hành tŕnh, lấy đầy các túi nước (21), đủ chừng cần thiết cho mọi người dùng. Lạc đà xử dụng nơi xứ này nhịn khát rất dễ dàng, thực là một điều thuận tiện cho kẻ vượt những sa mạc bao la.

Nước ở những cái giếng thường hay là nước độc và tồi tệ. Để giải quyết cái trở ngại gây ra cho bao tử này, người Thổ dùng một loại đồ uống mà họ gọi là «cà phê», mà nay đă bắt đầu thấy được xử dụng ở các thành phố Âu Châu. Thứ đồ uống này gồm một thứ hạt nhỏ, mọc hằng hà sa số bên xứ Arabia, gần thành La Mecque. Từ đó, người ta chở tới khắp nơi bên Á Châu, gần như đến khắp nơi có người Mahomed là người dùng «cà phê» thay cho rượu chát. Thức uống này cũng có công hiệu tựa như rượu chát vậy, đặc điểm là tăng cường bao tử, giúp tiêu hóa; hơn nữa, c̣n giúp khỏi chóng mặt (22) choáng váng. Họ rang loại hạt này trong chảo, rồi dùng cối xay nghiền nát thành bột. Và sau khi tách vỏ ra bằng một thứ đồ lọc, người ta đun sôi thứ bột cháy và đen này trong nước lâu độ một kinh «Miserere» (23), sau cùng người ta đem uống, nóng nhất có thể được. Mặc dù thứ đồ uống trên chẳng có cái vị dễ chịu nào, hơn nữa lại c̣n chát chát, nhưng dân ở đây lại rất yêu chuộng, v́ công hiệu của nó. Điều này tỏ ra sự chăm sóc của Chúa đă lo cho mọi xứ sở những thứ cần thiết v́ ích lợi con người; ta có thể nghĩ rằng nơi các xứ sở khác cũng có những loại thảo mộc đem lại công hiệu tốt lành như vậy (24).

Những ai đi trong đoàn hành tŕnh phải cẩn thận đừng xa đoàn, bởi v́ dân Á Rập chỉ sống bằng đồ lấy được. Họ thường xuyên chạy qua chạy lại để tấn công kẻ qua đường. Khi đoàn hành tŕnh nhiều người th́ chúng tấn công vào đằng đuôi và không ai lường trước được. Đừng hy vọng vào kẻ đă đi trước quay lại cứu đỡ người bị tấn công.

Chúng tôi phải tạ ơn Chúa v́ sự phù hộ đặc biệt Ngài ban, chẳng bị một tai nạn đáng tiếc mảy may nào, cũng chẳng gặp chi phải lo sợ. Không phải là chúng tôi không đụng người Á Rập, nhưng là v́ suốt mùa đông chúng không rời khỏi gia đ́nh, bận lo t́m cỏ nuôi súc vật. Chúng tôi cũng từng thấy một vài nhóm Á Rập dẫn vợ con và bầy thú chở đồ đạc, nhà cửa trên lưng ḅ lưng lừa, đi t́m nơi cư trú khác. Khi chúng t́m được mảnh đất tốt cỏ, chúng dựng lều trại, lập phố chợ lưu động và ở lại đó bao lâu bầy súc vật c̣n có thể sinh sống được. Do đó, không phải sợ dân Á Rập quá, v́ người ta có thể trả đũa chúng dễ dàng vào những ǵ quư giá nhất của chúng, đáp lại mọi thứ bạo lực chúng gây ra.

Đó là những điều tôi đă có thể lưu ư về các hành tŕnh trong sa mạc. Nay phải lấy lại cuộc hành tŕnh của chúng tôi đă tạm bỏ dở.

Ngày 3 tháng Hai, chúng tôi cắm lều ở cách Alep một dặm đường giữa đồng trống. Ngày hôm sau, đoàn đến Isabou đợi một ít hàng hóa. Ngày 6, đoàn tiếp tục hành tŕnh đến ngày 14 th́ tới gần Dert là một lâu đài với độ trăm nóc nhà, kế cận sông Euphrate. Người cầm quyền nơi này lẽ thường là một xếp người Á Rập. Ông ta bắt mọi đoàn hành tŕnh phải đóng tiền qua sông, cứ ba phần tư quan tiền một lần tải và một món quà. Khi nào không sao qua nổi th́ lại biếu ông ta một món quà theo ư ông, rồi ông sẽ giải quyết tùy theo mức độ lớn nhỏ của đoàn hành tŕnh. Chúng tôi dựng lều cách Dert một dặm, hôm sau qua sông Euphrate về phía Mésopotamie: đoàn hưởng được ba ngày bên ḍng sông tuyệt đẹp này, nhưng lại ở một nơi xem ra là chốn ẩn náu của sư tử, lợn ḷi và các thú rừng khác hơn là nơi con người an cư: người ta thấy dấu vết muôn thú khắp nơi. Chúng tôi lại càng sợ cơn điên của thú dữ v́ chúng tôi chiếm mất chốn sinh hoạt chạy nhẩy của chúng. Một người trong đoàn đi hơi xa chúng tôi đă gặp ngay bên cạnh ḿnh một thú dữ đang gầm gừ vượt qua bụi rậm khiến ông phải hoảng sợ lên. Chuyện này giúp chúng tôi càng phải theo lời người ta đă khuyên là đừng bao giờ bỏ xa đoàn hành tŕnh.

Hôm chúng tôi dựng lều, một con lạc đà bị chết; người ta quăng xác nó cách lều không xa, tức th́ trở thành mồi ngon cho muôn thú ăn thịt đang đói khát: mấy con sư tử th́ chẳng c̣n biết sợ người sợ súng sợ chó sủa ǵ nữa, lo ăn thịt con mồi suốt cả đêm.

Đoàn hành tŕnh đă mất ba ngày để qua sông Euphrate trên con thuyền khốn nạn: chúng tôi phải trả cứ ba phần tư quan tiền cho mỗi trọng tải của một con ngựa hay một con lạc đà.

Ngày 18 đoàn tiếp tục đi đến ngày 23 th́ tới Anna, trên cùng bờ sông Euphrate, và ở lại đó ngày 24 và 25, và trả hai quan tiền cho mỗi đầu người «Phăng». Đó là quyền của ông cầm quyền sở tại đối với mọi quốc gia, chưa kể c̣n phải trả năm phần tư quan tiền cho mỗi trọng tải.

Đoàn lại ra đi ngày 26 tháng Hai và ngày 3 tháng Ba tới được Babylone lúc đă khá khuya. Người Á Châu c̣n gọi nơi này bằng tên Bagdad. V́ mọi cửa thành đă đóng, chúng tôi ngủ cả dưới ánh trăng, bên bờ sông Tygre.

Qua hôm sau, hai trong chúng tôi (25) cùng với người thông dịch t́m vào thành, trong khi người c̣n lại lo giữ đồ đạc: nhưng người ta không muốn cho vào, lại phải đưa ra hai quan tiền. Ba người vào cổng thành với các túi xắc trên lưng ngựa, đựng mọi thứ quà quư giá trong đó, chẳng ai lục xét. Một lúc sau khi vào thành, một người trong nhóm ba người này đến trạm quan thuế nơi đồ đạc quần áo của chúng tôi đă đem lại đó: người ta chẳng bắt đóng tiền sách và phẩm phục phụng vụ Giáo Hội. C̣n các món đồ quư lạ (26) mà theo ư khuyên dạy chúng tôi đă mua sắm ở Paris trước, th́ gần như không ai ngó ngàng tới.

Thực ra cái đem lại phúc lộc này cho chúng tôi là ngài Topigi Bachi, tức là quan chỉ huy pháo đội thành phố này. Ông rất đường hoàng, sẵn ḷng phục vụ người Pháp và chúng tôi đă nhận được nơi ông hàng ngàn ân huệ. Là người thành Venise (nước Ư), ông công khai giữ đạo Công giáo là đạo ông đă được dạy dỗ. Ông đă đích thân đến trấn thuế vụ, đánh giá là một trăm quan tiền ê-cu (27) những đồ trị giá cả bốn trăm quan ngay tại Paris, rồi tuyên bố mọi thứ quà quư giá là đồ của ông ta: chúng tôi thoát khỏi như không có ǵ cả.

B́nh thường ngài Topigi cư ngụ gần thành Damas, trong đất mà Lănh Chúa đă ban v́ việc phục vụ đắc lực của ông thời chống lại vua xứ Ba Tư, phần đất này trị giá đến bốn hay năm ngàn quan ê-cu. Ông ta c̣n có thể đạt được cơ nghiệp lớn hơn thế nữa nếu như ông thuận nghe lời đề nghị mà bỏ đạo. Đứa con trai ông, dù c̣n nhỏ tuổi, đă được nhận vào trách nhiệm của ông. Chúng tôi làm quen với ông, hy vọng sẽ làm ích cho ai đến sau chúng tôi, và chúng tôi có tặng ông ít quà cáp mà ông đă đáp lại bằng cách gửi tới chúng tôi nhiều thứ đồ giải khát của xứ này.

Đến Babylone, chúng tôi xuống nhà các cha Ḍng Phanxicô Capuxanh mà b́nh thường gồm ba hay bốn cha. Đó là các thừa sai duy nhất ở thành phố này. Chúng tôi làm chứng rằng người ta rất quư mến các ngài cũng như hiệu quả công việc các ngài làm khi t́m đem về lại Giáo Hội những người Armêniô, Jacobitô và Nestôriô (28). Hiệu quả ấy thực đáng ca ngợi nếu người ta biết đến cái cứng cỏi và bê tha của phần lớn những Kitô hữu tại cái xứ này. Các ngài cũng đă chinh phục được một số các linh mục trong đám họ và có được khoảng hai trăm người mà hiện giờ đă được dạy dỗ rất chu đáo về các mầu nhiệm đức tin chúng ta. Đó là một trong những kết quả công việc các tu sĩ này. C̣n việc khác là rửa tội các trẻ nhỏ người Thổ mà các ngài xét là sắp chết. Các tu sĩ từ bi này có một phương thế rất tốt để làm việc sau này nhờ một cha trong họ nổi tiếng tại thành phố như một y sĩ tài ba. Chắc chắn cha cũng như một người từ thiện nhất. Khi có trẻ em nào bị bệnh, người ta đến xin cha lại cứu chữa hay đem trẻ đến chỗ cha. Phần cha, cha t́m rửa tội cho em nhỏ nào mà nếu cha xét là em khó sống được. Nhờ thế cha gặt được bao là ân phúc v́ hiếm thấy em nào c̣n sống xót một khi cha đă xét là phải ban Phép Rửa Tội cho em (29).

Theo lời xin của các cha ḍng, đức cha Beryte đă ban Phép Thêm Sức trong hai ngày 13 và 14 trong tháng đó cho quăng 120 người.

Thành phố Babylone nằm bên con sông Tygre, ở vĩ tuyến thứ 33. Thành phố có tường lũy bao che một cách tồi tệ mà một phía nằm sát cạnh bờ sông cả. Lănh Chúa trị v́ luôn luôn chăm lo đạo binh v́ sợ nhà vua nước Ba Tư. Thành phố cũng rộng lớn cỡ thành Orléans (bên Pháp), nhưng thưa dân hơn và chẳng có ǵ là đẹp đẽ nếu đem so sánh với các thành phố bên Pháp. Thành có được vài ngôi giáo đường Hồi Giáo và vài ngôi chợ lợp mái, nghĩa là những con phố có mái che, ṿm cao, nơi lái buôn lo việc thương mại và các nhà thủ công nghệ mở cửa bán hàng. Những nơi này đă được người Ba Tư xây dựng khi họ c̣n trấn giữ thành phố này. Người ta chú ư ngay tới các ngôi giáo đường Hồi Giáo và các ngôi chợ lợp mái nhờ ở những bức tường bên ngoài bằng gạch vuông nhiều màu, nh́n rất dễ chịu. Thành phố này là thành phố mới so với thành Babylone nổi tiếng thời xa xưa.

Ngày 16 tháng Ba, chúng tôi ra đi đến Bassora nhờ công của ngài Topigi người Venise đă đích thân lo liệu dẫn chúng tôi xuống tàu của một người binh bộ bạn ông ta. Chúng tôi xuống tàu trên sông Tygre. Không ai có thể diễn tả được nỗi vui mừng của chúng tôi khi chúng tôi gặp được trong đám dân ngoại một người lương thiện hiểu tiếng chúng tôi và có cùng một tôn giáo. Ông ta đă đem cho chúng tôi một niềm vui lớn. Thiên Chúa quan pḥng đă cho chúng tôi thỉnh thoảng gặp gỡ được những người bạn như thế và thật là một lợi ích lớn trên đường hành tŕnh chúng tôi.

Ngày 29 chúng tôi tới Corna, nơi mà gần đó ḍng sông Euphrate và Tygre hợp lại với nhau, nhờ đó mà khúc sông Tygre nơi này trở thành tuyệt đẹp. Nơi này có trấn thuế vụ rất chính xác và rất lớn của quan thành Bassora. Nhờ ơn đặt biệt của Chúa, chúng tôi thoát khỏi trấn này, nhân viên chỉ xem xét ḥm sách vở và ḥm y phục phụng tự Giáo Hội, phần c̣n lại họ không ngó ngàng tới.

Trưa ngày 30, chúng tôi rời Corna; chiều tới th́ đến con kênh thành Bassora. Hôm sau, chúng tôi báo tin cho các cha Ḍng Cát-minh hay: các ngài là người Ư, một vị đă đến đón chúng tôi bằng một con xuồng nhỏ và đưa chúng tôi về nhà của các ngài. Các thừa sai rất hữu ích tại Bassora, hoặc để giúp các Kitô hữu tại đó, hoặc để giúp đỡ các người nô lệ trốn khỏi tay người Ba Tư hay khỏi những vùng lân cận xứ Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc để tiếp đón các thừa sai qua lại hay các Kitô hữu buôn bán tại hải cảng này nơi có nhiều tàu bè các xứ Bồ Đào Nha, Anh và Hoà Lan, các tàu này hằng năm đều đi qua Ấn Độ. Buổi chiều, người ta đến xem các món đồ quư lạ của chúng tôi mà họ cho giá là năm trăm quan, chẳng hơn giá tại Paris chút nào; chúng tôi đă đóng thuế món đồ này là 7,5% tức ba mươi bảy quan rưỡi.

Bassora hay Balsere là một thành phố xứ Arabia sa mạc, nằm ở nam vĩ tuyến thứ 33, bên ḍng sông lớn do sông Euphrate và sông Tigre hợp thành. Con sông này khơi nguồn khoảng 35 dặm phía trên Bassora và đổ vào vịnh Ba Tư. Hai bên bờ trông rất ngoạn mục nhờ các rừng lá, có hằng hà vô số những cây trái chà là mà người ta chuyên chở đi khắp nơi.

Đó là một trong những nguồn tài nguyên và phong phú của xứ này. Loại trái ấy rất quen thuộc, vị tuyệt ngon, ăn tươi hoặc khô, tuy nhiên nóng và nhiều đảm trấp, sẽ gây tiêu chẩy cho những ai dùng quá nhiều. Một vài cuốn sách đă ca ngợi cái đặc biệt của loại cây này rằng giữa chúng, có cây th́ đực có cây th́ cái. Thiếu cây khác giống, chúng không thể sinh ra trái được. Bởi v́ cây đực không bao giờ cho trái, vào mùa xuân, chúng chỉ đâm ra phía trên thân cây những nhánh chồi nhỏ, dài độ một bộ. Cũng vào thời kỳ đó, cây cái lại sinh sản ra cũng vào chỗ ấy, nghĩa là phía dưới các cành lá, một thứ nụ nhỏ, phồng lên phía giữa như những bắp tay, và thu lại ở hai đầu, lớn cũng độ một bộ. Để loại cây này kết trái, phải rạch một đường nhỏ trên thứ nụ đó, lấy một nhánh chồi nhỏ của cây đực chen vào đó. Chính từ thứ nụ ấy, sẽ sinh ra những trái chà là với những ngành nhỏ xíu, dài khoảng nửa bàn tay. Mỗi ngành như thế có thể được tới cả 12 trái, và mỗi thứ nụ nói trên sinh ra được 15 hay 20 ngành nhỏ như vậy. Cây chà là cái rất nhiều, v́ cây đực chỉ sinh ra các nhánh chồi nhỏ để kết sinh cho nhiều cây cái, cho nên trong một vườn khoảng trăm cây th́ cây đực chỉ có khoảng nửa chục mà thôi. Nét độc đáo này khiến ta ngưỡng mộ cái phong phú và muôn h́nh vạn trạng của thiên nhiên cùng ca ngợi Đấng đă tác thành nên như thế.

Thành phố Bassora khá rộng và đông dân v́ nền thương mại lập ra tại đây, nhờ tàu bè gần như của tất cả các xứ kéo đến, từ Âu Châu từ Á Châu. Người Bồ Đào Nha, người Anh và người Ḥa Lan đều tới làm giầu ở đây. Tuy lớn, nhưng thành phố lại xây rất xấu và khó coi. Nhà cửa xây bằng gạch nung dưới nắng nên không bền chút nào. Mái nhà là một thứ sân thượng mà người ta đi trên đó thôi cũng đủ biến chúng thành bột cát rồi. Có những nhà khác th́ làm bằng tranh hoặc cây sậy. Không khí tốt, nhưng nóng khủng khiếp, đến nỗi vào mùa hè, dân thành phố buộc ḷng phải trầm ḿnh dưới nước suốt ngày để tưới mát. Người khác muốn ngủ nghỉ th́ phải thấm nước ướt hết chăn chiếu trước. Chúng tôi chẳng gặp được chỗ nào mà mặt trời bớt thiêu đốt hơn nữa, họa may là ban đêm, mà đêm ở đây th́ cũng chẳng mát hơn chỗ khác. Bởi vậy nhà cửa cứ nóng âm ỷ đến nỗi người ta có cảm tưởng là bị ngạt hơi hơn là thở hơi, cứ thế cho đến gần sáng mới thấy thoáng mát một chút cho tới lúc mặt trời lên hơi cao khỏi chân trời.

Quan Toàn Quyền thành phố là một «bacha» người Mahomed, mà người ta có thể gọi là ông vua, v́ đă từ lâu ông ta chẳng c̣n vâng phục vị Lănh Chúa nữa, dù hằng năm vẫn gửi quà cáp theo kiểu triều cống. Ông ta nắm vương quyền trong lănh địa nhỏ của ông ta. Ông cứ thảnh thơi như thế, v́ ông ở cách rất xa thành phố La Porte. Khó mà bắt buộc ông vào được nghĩa vụ của ông, v́ không dễ có ai dẫn được các đạo quân vượt qua nổi các sa mạc mênh mông miền Arabia là những sa mạc phân cách các xứ này xứ nọ của vị Lănh Chúa. Ông lại c̣n cẩn thận liên giao với người Á Rập để c̣n dùng khi ông cần đến.

Bassora nằm giữa vùng Ấn Độ và Âu Châu nên là bến gặp cho mọi xứ sở của bên này cũng như bên kia. Do đó mọi thứ tôn giáo đều được khoan dung (30) nơi đây: người Do Thái giáo, Hồi giáo, Kitô giáo thuộc các giáo phái khác nhau, Lương giáo và Ngụy giáo (31) tất cả đều có giáo đường riêng, tu sĩ riêng và đều được tự do làm việc thờ phượng riêng. Đạo Công giáo nơi đây ít được để ư hơn cả. Các cha Ḍng Cát-minh Chân-không có một ngôi nhà thờ đẹp xây vào hồi các người Bồ Đào Nha c̣n mạnh thế trong vùng Ấn Độ Dương, nhưng giờ th́ tại Bassora chưa được hơn 20 người Công giáo.

Ở vùng lân cận Bassora và ngay trong thành phố, có một quốc gia nào đó mà người ta gọi là các Kitô hữu của Thánh Gioan (32). Người dân tôn kính Thánh nhân hơn cả tôn kính Chúa Giêsu. Họ nói là chính Chúa Giêsu c̣n phải đến với Thánh nhân để được rửa tội. Chỉ riêng điều này thôi đă có thể cho thấy cái thần học và cái Kitô giáo của những người đáng thương này đi về đâu rồi. Họ rất sùng kính Thánh giá, mà theo họ nói, nhờ đó đă sinh ra ánh sáng. Về điểm này, họ sẽ đáng được ca ngợi nếu như họ đừng hiểu ánh sáng ở đây là ánh sáng hữu h́nh (33) chiếu soi cho con mắt chúng ta. Họ kể ra cá ngàn cái mơ mộng về cội nguồn ánh sáng. Họ có các giám mục của họ, linh mục của họ, các nghi thức phụng tự của họ, phụng tự chủ yếu nhắm vào việc thường xuyên rửa tội là phương cách, theo họ tin, để thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi. Họ cũng thực hành việc hiến tế một vài thú vật mà họ đă chúc lành trước, hầu những ai ăn thịt chúng sẽ không bị ô uế, nhưng sẽ được thánh hiến (34).

Thương mại tại thành phố Bassora c̣n lôi cuốn đến nhiều người lạc giáo miền Ấn Độ nữa. Lănh Chúa nơi đó, mặc dù là tín đồ Mahomed và bởi thế là kẻ thù của kẻ lạc giáo mà chính kinh Alcoran chê ghét trên lănh thổ Hồi giáo, nhưng ông lại không bắt bớ ǵ họ khi họ làm việc thờ cúng đáng nguyền rủa của họ một cách công khai, điều khiến chúng tôi khá ngạc nhiên và thấy ghê tởm (35).

Những kẻ lạc giáo này chia ra nhiều giáo phái nên khó mà cắt nghĩa được cái khác biệt và những sai lầm giữa họ với nhau. Mặc dù đám dân này sống trong vùng tăm tối đầy đặc của Lạc giáo (36), nhưng họ lại rất lanh lợi trong vấn đề thương mại khiến ta thấy là họ không phải là không có tinh thần (37).

Chúng tôi đă ṭ ṃ nói chuyện với một vài người mà xem ra họ phán đoán cũng rất hay. Người ta mời chúng tôi đi thăm một trong các ngôi đền thờ của họ. Chúng tôi được dẫn vào một căn pḥng mái ṿm mà ánh sáng chỉ chiếu vào được qua khung cửa ra vào, không có cửa sổ, làm chúng tôi nghĩ là ḿnh đang vào nhà của Thần Tối Tăm. Người ta thắp lên một ngọn đèn mà ánh sáng mờ khuất v́ khói tỏa ra, chớm đủ để chúng tôi thấy được các đồ vật. Ṿm đền thờ được trang hoàng bằng vô số các bó hoa, che khuất cả ṿm trần nám khói đen. Bên trong được chia ra làm hai phần bằng một cái cột nhỏ xinh xắn. Các nhân viên đền thờ ngăn không cho chúng tôi vào cung thánh, sợ phạm thượng. Rồi ngay khi chúng tôi vừa được phép vào nơi đó, hai nhân viên liền cởi bỏ y phục của họ là một tấm vải rộng một gang (38) quấn quanh ḿnh. Người ta nói với chúng tôi là để thêm tôn kính thần thánh của họ mà họ chỉ đến gần với ḿnh trần. Các nhân viên này cho chúng tôi ngắm một bàn thờ, nằm từ đầu này đền thờ sang đầu bên kia, ở giữa có một tượng thần bằng vàng khối có mặt h́nh người, được trang điểm bằng rất nhiều thứ đá quư. Trên bàn thờ ấy có một cái giường với những bức màn che, chúng tôi hỏi là cái giường ấy dùng làm chi th́ người ta nói là dùng cho bà vợ của vị thần họ. Bên cạnh đó, chúng tôi c̣n thấy đặt nằm một con ḅ cái bằng bạc. Con vật này được các kẻ lạc giáo tôn thờ như một thần thánh.

Buồn chán v́ những cảnh tượng trên, chúng tôi đă sớm cáo từ các tác viên (39) đền thờ ấy. Khi đi ra, chúng tôi nhận thấy trong một nơi tối nhất, một người đàn ông có một chỗ ở bên một bức tường đền thờ. Người ta nói với chúng tôi rằng ông ta là thầy tế và nhiệm vụ chính của ông là hằng ngày lo cho vị thần của họ ăn uống. Người ta có thể nghĩ rằng nếu ông ta cho là ông đang phụng thờ thần thánh của ông, th́ ông cũng tỉa ra được lời lăi chẳng kém chi 70 thầy tế của thần Bel, như đă kể lại ở chương 14 sách Daniel: họ ăn uống thỏa thích những ǵ đă được dâng cúng cho thần, trong khi họ lại cứ càng bịt mắt đám dân, và ngay cả ông hoàng cùng triều đ́nh, nhờ ở cái tin tưởng lầm lạc của đám người ấy vào ông thần Bel thích ăn thích uống, dùng hết cả thịt thà (dâng cúng).

Các cha Ḍng Cát-minh Chân-không nơi chúng tôi cư trú muốn chúng tôi được hít thở không khí tươi mát hơn ở Bassora nên dẫn chúng tôi đến mấy khu vườn gần đó. Có rất nhiều vườn, đầy những thứ cây ăn trái rất đẹp. Nơi chúng tôi đến, hồi đó, là của người dân Bagnanes. Họ đang cử hành một trong những cái lễ lớn nhất của họ, có chút nào giống với Lễ Lều Tạm mà xưa Thiên Chúa đă truyền dạy cho dân Do Thái trong sách Lê-vi chương 23 vậy. Các lương dân thành phố Bassora suốt một tuần lễ liền đă bỏ thành phố đến ở trong những khu vườn nói trên, dưới bóng mát cây cối và trong những cái lều mà họ dựng lên. Suốt thời gian đó là vui chơi, yến tiệc, nhẩy nhót, theo tiếng sáo tiếng kèn và các loại khí cụ khác. V́ chúng tôi nghĩ là nên rút lui khỏi cái ồn ào ấy, những người Bagnanes thấy chúng tôi muốn bỏ đi, liền tới trước chúng tôi, lịch thiệp mời chúng tôi vào dưới lều của họ. Chúng tôi thấy nơi ở của họ rất dễ chịu. Một vài cái làm toàn bằng lụa thêu: mặt đất trải thảm xinh đẹp, mọi người ngồi cả trên đó, nghĩa là xếp bằng chân lại như các thợ may của chúng ta. Liền sau đó, họ đem các b́nh hương nhỏ đầy than hồng ra, tỏa hương thơm ngào ngạt. Phải đón nhận nghĩa cử của họ, không chống đối, và lấy đặt các b́nh hương ấy vào dưới áo khoác của ḿnh: người ta phủ áo lên các b́nh hương và chờ tới khi áo được xông đầy hương thơm. Sau đó, họ đem nước hoa hồng đựng trong các b́nh nhỏ mạ bạc ra. Ṿi b́nh nhỏ xíu, nhờ đó họ đổ nước hoa từ từ xuống mặt, râu và tay chúng tôi. Họ c̣n muốn tiếp tục phép lịch sự và sự tiếp đón ân cần của họ và đă gọi ban nhạc gồm các nhạc cụ khác nhau đến gần. Nhưng chúng tôi không tham dự chút nào vào những thú vui của họ, trái lại chúng tôi cảm thấy thực đau khổ v́ cái mù quáng nơi họ và cảm thương họ, nhất là v́ cái tính đơn sơ của họ. Chúng tôi xin họ cho phép chúng tôi được rút lui để lo công chuyện riêng, họ nhận lời xin chúng tôi với nhiều muối tiếc. Chúng tôi để họ tiếp tục cử hành nghi lễ ồn ào của họ, nghi lễ có vẻ là buổi khiêu vũ hơn là một nghi lễ tôn giáo.

Trước khi vào tiếp câu chuyện này, tôi tưởng là sẽ không vô ích khi nêu ra đây vài ư kiến thực tiễn cho việc hành tŕnh, dành cho những ai sẽ muốn đi theo chúng tôi theo con đường mà chúng tôi đă giữ: phải xuống tàu tại Marseille, từ đó, tháng nào cũng có tàu căng buồm đi Syria. Dù có thể ra đi từ Pháp vào bất kỳ lúc nào, tuy nhiên không kém quan trọng phải lo chọn lấy thời thuận tiện nhất đối với xứ đông (40); bằng không, sẽ phải khó chịu vô cùng v́ cái nóng như thiêu như đốt trong những vùng ấy suốt bốn năm tháng trong năm. Cái mùa xem ra thuận lợi nhất là xuống tàu tại Marseille vào tháng Chín. Phải tính hết một tháng đi tàu mới đến được Alexandrette, từ đó đến Alep. Thời gian lưu lại đó chờ có đoàn hành tŕnh mà đi đến thành phố Babylone được cũng cả tháng trời. Chung chung, người ta bỏ ra 6 tuần lễ để đi từ Alep đến Babylone. C̣n phải ở lại thành phố này 15 ngày nữa, trước khi có dịp xuống thuyền trên sông Tygre mà đến Bassora. Rồi mất khoảng 15 ngày nữa để đến nơi. Thế là đă gần cuối tháng Giêng rồi. Từ đó, luôn luôn có được thuận tiện để tới Congo, cách Comoron bốn ngày trời đi bộ. Và thường xuyên phải mất 15 hay 16 ngày trên thuyền mới đến được cảng sau cùng này (tức Comoron). Ở đây, để đi Surate, bảo đảm là người ta hằng năm sẽ gặp các tàu bè người Bồ Đào Nha, Anh, Ḥa Lan và More, trong một thời gian ngắn, như chúng tôi hy vọng. Cũng gặp được ở đây người Pháp nữa. Trong khoảng từ tháng Mười tới cuối tháng Tư. Tàu bè bắt buộc phải đến Surate trước cuối tháng Năm, bởi v́ các cảng vùng Ấn Độ Dương sẽ đóng cửa trong ṿng bốn tháng sau đó. Cảng đóng cửa th́ không thể nào đi trên biển nơi đó mà lại không bị ch́m tàu.

Ngoài cái thuận tiện trên con đường đó ra là đường dễ dàng và an toàn, c̣n có một đường khác cũng đáng để ư tới là cần tới con người nổi tiếng gốc thành Venise mà chúng tôi đă nói đến trước đây. V́ phận sự của ông là người chỉ huy bộ binh miền đó, hằng năm, từ một nơi cách thành Tripoli của xứ Syria độ một ngày đường, ông ta đi họp ban chỉ huy tại kinh thành Bagdad. Ông chỉ mất có 20 ngày đi đường. Hằng năm, ông ra đi trễ nhất là vào ngày 15 tháng Mười và tới nơi đầu tháng Mười Một. Lợi dụng cái thuận lợi này, người ta có thể đến Bassora vào tháng Chạp, tháng Giêng ở Comoron, hay Ormus, hay Bandarabassi, th́ cũng thế. Và cuối cùng, đến được Surate vào tháng Hai là mùa thuận lợi nhất để xuống tàu sang Trung Hoa. Nếu ai muốn đi theo con đường nói trên th́ mang theo vài lá thư gởi gắm đến ngài Topigi, ông ta sẽ vui vẻ đón nhận. Lợi dụng được dịp này th́ rất có lợi, bởi v́ người ta đi trong an toàn, khỏi cần người thông ngôn, khỏi cần cực khổ lo liệu lương thực đi đường, cũng chẳng phải trả thuế má chi, nhờ chút quà mọn biếu ngài Topigi và theo ông như người trong đoàn tháp tùng của ông. Ông ta sẽ vui ḷng được danh dự phục vụ như người bạn của dân tộc Pháp và cận thần của nhà vua (nước Pháp).

Những người sẽ tới Alexandrette không được thay đổi y phục chi hết cho đến tận Alep. Y phục đặc biệt nhất và bảo đảm nhất để đi từ Alep đến Bagdad là y phục dân nhà quê xứ Thổ Nhĩ Kỳ, giá rất rẻ. V́ cần cho việc hành tŕnh, các khách đường phải dùng một người thông ngôn, và mượn danh nghĩa người thông ngôn ấy mà t́m cho lọt qua được tất cả những ǵ của ḿnh, từ đồ đạc đến những quà tặng giá trị. Hầu có được một người thông ngôn trung thành và ḿnh làm chủ đoàn hành tŕnh được, th́ phải xử dụng tới thần thế của ngài lănh sự Pháp, cũng thế đối với người thành Venise và người Ḥa Lan. Đó là điều rất đáng lưu tâm.

Khi người ta không muốn đem theo tiền bạc, th́ những đồ có lợi nhất mà người ta có thể đem theo cho cuộc hành tŕnh, chủ yếu là nơi những thừa sai «giáo sĩ triều» (41) là những vị khi có dịp có thể đem ra bán đổi, là hoàng thạch ánh nhất, là đá khảm lớn nhất và đẹp nhất. Tiền bạc Âu Châu chẳng có giá trị ǵ. Không quan trọng chuyện phải sắp đặt (những thứ đồ ấy) như thế nào. Luôn luôn có lợi nếu t́m tránh được tất cả thuế má, mang chúng trong túi trên lưng ngựa hay trong va li. Tiền mà người ta phải đổi (để mang theo) là tiền Tây Ban Nha, được tính như một quan ê-cu tại Marseille, Alexandrette, Alep và Bagdad; c̣n tại Bassora, người ta sẽ cân rất kỹ lưỡng. Lời được 7 hay 8% tại Alep và Bagdad, 10 hay 12% tại Bassora, nếu là các loại tiền Tây Ban Nha là tiền có giá, chứ không phải tiền Perou là thứ kém giá trị. Cũng thế cho tiền Louis bạc của chúng ta tại Bassora, lời được 10%.

Về những ǵ là vàng, có lợi lớn khi dùng tiền vàng cổ của Venise và Hung Gia Lợi. Tại thành phố Lyon, người ta đă biếu chúng tôi 6 quan «livre» và 3 xu (42), mà chúng tôi không lấy v́ không biết chúng có giá trị ǵ ở đất Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, chúng tôi đă đặt được 7 quan «livre» và 7 quan 10 xu tại Alep và Bagdad.

Hiểu biết về tiền tệ như thế là một điều hết sức quan trọng trong các xứ sở nơi đây. Chúng tôi đă từng thấy những người Pháp hay các người nước khác, nhờ khéo xử dụng, đă cứu văn lại được cuộc hành tŕnh của họ từ Âu Châu sang Bassora hơn là đă phải tiêu ra. Nhưng, trừ phi là đă ở xứ này, rất khó mà hiểu biết được cách sinh hoạt trên. Theo lời người ta chỉ dẫn tại Paris, chúng tôi đă đem theo tiền quan Tây Ban Nha mà mỗi quan chúng tôi đă mất đi 10 xu tại Alep và Bassora. C̣n nhiều ư kiến khác có thể nêu ra đây, nhưng người ta sẽ biết được ngay khi tới nơi. Cũng đừng quên đem theo vũ khí của Pháp: chúng cần thiết trong những xứ hỗn tạp này, nhất là khi đi trong đoàn hành tŕnh và tại các nơi trú chân trống trải tứ bề, nơi mà người ta mỗi ngày phải cắm lều. Súng «carabine» và súng sáu ṇng dài là thứ tiện lợi và tốt nhất. Ban đêm thường hay phải nổ súng để làm bọn Á Rập lánh ra xa.

Chúng tôi nói để an ủi những Kitô hữu và các thừa sai rằng họ có thể tự do đọc kinh cầu nguyện suốt cuộc hành tŕnh, khỏi sợ dân Thổ lấy làm khó chịu. Trái lại, những người ngoại giáo này có vẻ như mời ḿnh cầu kinh khi họ mỗi ngày cầu nguyện theo cách thức của họ, chẳng e ngại ǵ cả, cho dù h́nh thức cầu nguyện bên ngoài của họ có vẻ khiêm hạ hơn cách thức của chúng ta.

 

&&&

 

<<<<<

Chương 3

Tiếp tục cuộc hành tŕnh của đức cha Beryte từ Bassora đến Hispaham

 

Mùa đă đi qua, không c̣n tới được Surate trước lúc thời tiết b́nh lặng hay thời gió đổi chiều nữa, hoặc nói đúng hơn là Đấng Quan Pḥng đă đưa tay dẫn dắt chúng tôi đến chỗ phải quyết định đi Hispaham. Từ Hispaam, hoặc chúng tôi sẽ chờ tháng Chín, tháng Mười là mùa đặc biệt riêng để đi Ormus, rồi từ đó xuống tàu đi Surate, hoặc ở lại thành phố ấy mà sinh hoạt nếu không t́m ra được con đường nào dẫn đến tận Trung Hoa. Nhưng chúng tôi vẫn c̣n chút hy vọng nhờ gặp được người chỗ này chỗ nọ.

Để thực hiện dự tính trên, chúng tôi rời Bassora ngày 22 tháng Tư, tới Bandaric là một hải cảng của nhà nước Ba Tư, nằm giữa vịnh Ba Tư, cách thành phố Bassora khoảng ba dặm đường.

Chúng tôi đến được Bandaric dễ dàng vào ngày 27 trong tháng, v́ sau đi trôi theo ḍng sông bốn ngày trời, chúng tôi chỉ qua trên biển chưa trọn 24 giờ đồng hồ là đă tới nơi. Gió mát thổi nhẹ đưa chúng tôi đến Bandaric.

Tôi nói tạ ơn Chúa, và nếu chúng ta luôn luôn phải tạ ơn Ngài th́ đặc biệt là phải tạ ơn vào những lúc này: các con thuyền đă đưa chúng tôi đi, được đóng và được điều khiển một cách hết sức vụng về đến nỗi không bao giờ những kẻ thông thái hay yêu đời lại muốn đặt chân lên. Phải từ bỏ tư cách người thông thái cũng như cái tính yêu đời th́ mới dám dấn thân vào những hành tŕnh như thế. Chắc chắn là khỏi phải suy tính tới những chuyện chúng ta phải làm trong những lúc ấy rồi, khi trước mắt ta là từng đấy lái buôn cùng theo chung một số mệnh. Những con đ̣ ác nghiệt, nếu ta phải gọi chúng như thế, hay đúng hơn là những cánh gỗ, không có lấy một mái che. Bởi thế chỉ cần một cơn gió nhẹ nổi lên là đủ để cho con thuyền ngập tràn nước biển rồi. Chúng được dựng lên bằng những mảnh gỗ thô kệch cứng nhắc được gắn liền với nhau mà không có lấy một cái đinh hay một con chốt sắt, chỉ cột bó lại bằng mớ giây sợi của một loại cây địa phương mà chỗ nào c̣n trống th́ người ta dùng tới vài con chốt mộc. Đoàn thủy thủ th́ cũng như thế thôi: thường thường là người More, dân nhút nhát nhất trần gian (1). Khi giông băo tới là họ khiếp vía cả lên, chui nấp tận đáy hầm con thuyền. Chẳng c̣n ai có thể kéo họ lên được dù có nạt nộ, đe loi dọa bắn chết đi nữa, họ vẫn cứ nằm lỳ dưới đó, ôm cứng lấy nhau mà chết giấc cả đám, chỉ c̣n biết khóc lóc than văn. Ai cũng phải liều mạng nguy hiểm như vậy, ít ra là khi đi Bassora vào tháng Chín.

Chúng tôi hiểu cái vô tâm vô trí của những tay lái thuyền kém cỏi ấy khi từ Bagdad xuống Bassora. Lúc trời đẹp, thả thuyền trôi đàng lái đi trước, bánh lái thuyền thành vô dụng, họ chẳng c̣n làm chủ được con thuyền nữa, cứ kệ cho gió đưa và ḍng nước cuốn. Cứ như thế, mỗi lần xuống thuyền là chúng ta phải chấp nhận như liều phó mạng cho cơn sóng gió, hoặc đúng hơn, phó ḿnh trong tay Đấng Quan Pḥng là Đấng đếm được sóng và cát biển. Đó là lúc để thấy mạng con người chỉ nằm trong một mảnh lưới mỏng, hai gang tay kế cận tử thần, ngạc nhiên v́ thấy đám dân này không kém ngu xuẩn, hời hợt, đem mạng ḿnh giỡn chơi trên một sự kiện vô đạo như thế. Họ thường xuyên gặp nạn đắm thuyền, hậu quả của tính buông trôi thả lỏng của ḿnh.

Sau ba hay bốn ngày tại cảng Bandaric, chúng tôi lên đường Schiras, qua ngả lừa đi, chỉ cuốc bộ suốt đêm, không dừng. Ban ngày th́ nghỉ ngơi. Cứ thế mà biến đêm thành ngày, thật bất tiện cho những ai không quen, v́ ban ngày trời nóng như thiêu như đốt khó mà ngủ nghỉ nổi để suốt đêm c̣n tỉnh táo được.

Sau năm ngày, đúng hơn, năm đêm đi bộ, chúng tôi tới Calzeron là một thành phố nhỏ của xứ Ba tư, nhưng xem ra lại khá lớn, xưa người ta gọi thành này là Césarée.

Suốt quăng đường, chúng tôi chỉ biết leo những ngọn núi cao vời vợi và xuống một con dốc rợn rùng. Một vài chỗ, đường thật hẹp, hai hoặc ba người đi sánh vai nhau được là cùng. Một bên th́ là dăy đá cao như với tận mây xanh, bên kia th́ là một vực thẳm sâu như đến tận ḷng địa cầu, mắt không nh́n thấu. Khách đường, bước chân sợ sệt, đi như bám vào vách đá e ngại bị rơi xuống vực sâu. Gần như suốt đường đi, chúng tôi chỉ biết có leo lên mà thôi. Sách Maccabée đă gọi đây là những vùng cao mà tướng Antiochus đă qua sau khi vượt sông Euphrate để đến xứ Ba Tư. Chúng tôi khổ sở rất nhiều trong cuộc hành tŕnh này: không một mái nhà, không một bóng mát, nắng như thiêu đốt cả ngày, lại thêm vách núi dội sức nóng trở lại nữa. Đêm về, dù trời có mát hơn, nhưng lại buồn ngủ dữ dằn, không ai cưỡng lại nổi, tuy vậy chẳng ai dám để mặc đời ḿnh cho may rủi, rồi cứ ngủ mà như tỉnh vậy.

Khí hậu tại Calzeron có phần dễ chịu hơn tại Bassora và Bandaric nên chúng tôi rất vui mừng đến được đấy, bắt đầu thở ra nhẹ nhàng và đến nỗi bỏ mặc chẳng lo đến chuyện sợ hăi lộn xộn gây gỗ hay trộm cắp mà những người Âu Châu - dân bản xứ gọi chung họ dưới tên «người Phăng» (2) - thường xuyên gặp phải trong xứ Ba Tư là xứ b́nh an và tự do này.

Tại thành phố này, chúng tôi nh́n được cái gọi là mùa chay của tín đồ Mahomed, mà họ gọi là Romadan hay là Romesan (3), kéo dài trọn một tuần trăng, nghĩa là một tháng trời theo điều răn kinh Alcoran (4) dạy. Họ kiêng ăn và kiêng uống suốt ban ngày. Một vài tín đồ nhiệt thành và sùng kính nhất trong đạo th́, một cách tỉ mỉ và dị đoan, họ đeo một tấm khăn mỏng hay miếng vải thưa trước mặt, v́ sợ hít thở nhằm vài con muỗi hoặc vài giọt nước mưa rơi trúng nếu trời đổ hạt. Có kẻ c̣n đi xa hơn thế nữa khi chuyên chú giữ giới luật trên, không dám nuốt nước miếng xuống nữa, và họ giữ như thế lúc ngày bắt đầu. Các nhà thông luật của họ lúc cắt nghĩa giới răn trên đă coi như ngày bắt đầu, tức giờ giữ chay khởi sự, khi trời đủ sáng để ta nhận ra màu sắc của sợi chỉ treo trong gió. Cũng thế, theo luật giữ chay, ngày chấm dứt khi mắt ta không c̣n có thể nhận ra màu sắc của sợi chỉ đó nữa. Nếu các người Mahomed sùng tín kiêng khem khờ dại suốt ngày như vậy, họ cần phải bù trừ lại vào ban đêm: lúc họ vừa chớm hết nhận ra màu sắc th́ họ được phép mở miệng, ăn uống, làm dạ tiệc suốt đêm, tiêu sài và hoang phí lộng lẫy hơn mùa nào cả trong năm. V́ kinh Alcoran dạy là trong thời kỳ ấy, mỗi người phải rộng răi cho ai cần th́ được mượn tiền bạc, lại càng có lư mà tiêu tiền cho chính ḿnh để lo sống thoải mái. Do đó, người ta thấy là các yến tiệc dạ hội như vậy cũng quan trọng và cũng công đức không kém việc giữ chay ban ngày. Suốt đêm, người ta nghe tiếng người hát, trống, kèn, sáo và các nhạc cụ hầu qua giờ một cách thú vị.

Những thái quá trong lối giữ đạo của họ như thế kéo dài tới tảng sáng đến nỗi qua ngày hôm sau, họ mệt mỏi buồn ngủ gần như hết ngày. Và như sợ chưa đủ hương khói qua những yến tiệc ấy, họ lại cầu cứu tới cần sa á phiện, nên phần lớn thời gian trong ngày trôi qua trong cơn ngủ trưa. Nói chung, họ chẳng bỏ qua sự ǵ hầu làm giảm nhẹ kỳ chay tịnh.

Tuy nhiên, họ gặp cái bất tiện là v́ mùa Romadan trễ lại mỗi năm 10 ngày, nên rơi vào mùa hè, ngày dài và nóng bức nhiều khiến việc ăn chay trở thành bất kham. Sự thực không phải mọi người đều giữ chay tịnh kỹ lưỡng đến thế và có kẻ nghĩ ḿnh vẫn giữ chay dù vẫn ăn uống, miễn sao đừng ai trông thấy. Nhưng ai mà muốn giữ chay đúng như luật lệ nghiêm nghị th́ phải khổ sở nhiều suốt mùa hè.

Người ta thấy rơ cái bất công trong cách giữ đạo của người Mahomed, đưa tín đồ đi từ thái cực này sang thái cực nọ, dù chẳng buộc họ làm sự ǵ xấu xa. Suốt đêm họ sống trong vô chừng vô độ, chẳng từ bỏ ǵ đối với cảm giác, rồi suốt ngày lại ch́m trong thái cực ngu xuẩn và ăn không ngồi rỗi, đến độ chay tịnh của họ là để chuẩn bị ăn cho thỏa thuê hơn là việc hy sinh nhân đức và hữu ích cho việc giữ quân b́nh các đam mê.

Suốt thời gian ấy, người ta chỉ tạm gặp ít kẻ c̣n tỉnh táo mà làm việc, lư do là v́ dân thợ vay mượn được tiền bạc dễ dàng. Bởi vậy, việc chay tịnh này đưa tới hai thái cực đều đáng nguyền rủa và tệ hại như nhau: ăn không ngồi rỗi và vô chừng vô độ, là nguyên do của nhiều xáo loạn và nhiều tội lỗi trong thời kỳ này. Người ta không thể bảo là do Thiên Chúa dựng nên, bởi chưng chẳng có nhân đức nào làm chuẩn (để đạt tới), (trong khi đó, đây lại là) mục tiêu duy nhất mà tôn giáo đích thực đề nghị ra. Chỉ nh́n vào duy cái lối thực hành này - được xem là nhân đức cao trọng nhất của các đồ đệ Mahomed - người ta đă có thể xét thấy các sai lầm và các sự thái quá của những kẻ đi theo giáo phái này rồi.

Ngày 10 tháng Năm, chúng tôi rời khỏi Calzeron để tới Schiras ngày 14, vào nửa đêm. Schiras hay Siras là một trong những thành phố đáng kể của toàn xứ Ba Tư, nằm ở vĩ độ thứ mười ba, trên ḍng sông Bendimir, dưới chân một ngọn núi, từ đó trải dài một cánh đồng tuyệt đẹp có tới 10 dặm chiều ngang và rất ph́ nhiêu. Nơi đó mọc đủ thứ trái ngon ngọt của thế gian này, mà phần lớn đều giống như loại trái chúng ta có bên Âu Châu.

Thành phố rộng lớn hơn thành phố Orléans, đầy rẫy vườn tược, nhà nào cũng có một mảnh vườn. Nhờ đó, thành phố càng rộng răi và càng dễ chịu thêm, nhưng người ở th́ lại thưa thớt. Những mảnh vườn ấy cũng được làm gần như vườn chúng ta vậy, cái đặc biệt là có những lối đi trồng cây trắc bá, thân to lớn và cao ngất trời. Để tưới vườn th́ có nước suối, nước cũng được dẫn theo lạch vào đến tận nhà ở để tắm rửa, một cách rất kỳ lạ.

Những dinh thự đáng kể nhất là các giáo đường Hồi giáo và các trường công cộng. Nh́n phía bên ngoài, các dinh thự này thật lộng lẫy, v́ các bức tường và các tháp nhỏ nhỏ làm tháp chuông giáo đường Hồi giáo đều được lát tứ phía bằng loại gạch sơn vẽ đủ màu sắc, rực rỡ như loại đồ sứ đẹp nhất của chúng ta. Mọi viên gạch đều được sắp theo một thứ tự tuyệt hảo, trông rất ngoạn mục. Họ lát gạch thành bảng hiệu, thành chữ, và trang trí chữ lên mặt tiền các giáo đường và các trường học.

Chúng tôi ṭ ṃ đến thăm một nhà trường được xây cất rất đều đặn. Bốn phần chính của nhà trường tạo thành một h́nh vuông vức, toàn nhà được chia ra nhiều căn pḥng nhỏ cho các học sinh. Người ta dạy chúng mọi thứ khoa học lành mạnh nhất. Các học sinh chăm chỉ học hỏi ngôn ngữ thuần tuư người Ba Tư, chúng cũng học cả tiếng Á Rập để đọc được kinh Alcoran trong nguyên bản. Nói tắt một lời, mọi thứ khoa học đều được trọng trong xứ này, bởi thế người ta nói được là nơi đây đào tạo nên những tinh thần tuyệt vời nhất hoàn vũ. Những người đă đối thoại với họ đều nhận là họ mang tinh thần hết sức lanh lợi, thanh thản và có khả năng vào những công việc đại sự. Họ có khuynh hướng đặc biệt về thi ca và toán học.

Tại Schiras, chúng tôi cư ngụ chỗ các cha ḍng Cát Minh Chân-không mà bề trên là một người Pháp, thuộc giáo phận Limoge. Ngài đă tiếp đón chúng tôi rất niềm nở. Thời gian ở nơi các cha, đàm đạo với các ngài, chúng tôi học lại chuyện mà chúng tôi đă biết hồi ở xứ Thổ Nhĩ Kỳ rồi: chẳng có chi, hay rất ít, có thể làm cho đạo phát triển được với đám người theo kinh Alcoran, v́ họ một mực gắn bó trong ḷng tin của họ, không như nhiều người Kitô giáo đối với đức tin của chúng ta. Tuy nhiên các thừa sai không phải là vô dụng ở các nơi này, phải chờ lúc mà Chúa sẽ soi sáng cho đám người ngoại giáo đáng thương này.

Tại thành phố Schiras ấy, chỉ có vài gia đ́nh Công giáo, tạo thành một Giáo Hội nhỏ, họ sống đúng là những Kitô hữu tốt lành giữa đám dân ngoại này. Chúng tôi rất vui mừng được đến thăm viếng họ. Các cha ḍng, ngoài việc chăm lo đoàn chiên nhỏ bé ấy, c̣n giúp đỡ tinh thần rất nhiều cho các Kitô hữu người Âu Châu đi qua thành phố để theo đường Ormus. Các cha làm việc đạo đức với tất cả mọi sự tự do như trong một xứ Kitô giáo vậy. Nhưng theo ư kiến chung của các thừa sai đă già đi trong xứ này, cái hay lớn nhất mà người ta có thể làm được là hướng về các Kitô hữu ly khai, sống tràn lan rất nhiều trong xứ Thổ Nhĩ Kỳ và xứ Ba Tư. Người ta quả quyết riêng với chúng tôi là việc hiệp nhất với đức tin Công giáo của đức thượng phụ các người ly khai Nestôriô là điều gần như chắc chắn rồi. Ngài ở phía trên thành phố Tauris năm hay sáu ngày đường, nghĩa là một tháng đường bộ từ Hispaham. Để công việc này được xúc tiến, chỉ cần đến có hai hoặc ba tu sĩ.

Hoàn toàn là chuyện vinh dự cho Giáo Hội khi nâng đỡ những sứ vụ nơi xa xôi này. Các sứ vụ thừa sai ấy thường không đem lại ngay kết quả là những cuộc trở lại mà chúng ta hy vọng, và ít thấy sứ vụ nào được thành công lớn trong việc lo cho các linh hồn, khi người ta kiên nhẫn t́m nâng đỡ. Nhưng các thừa sai th́ lại không hề bị nao núng v́ khó khăn và các người Công giáo Âu Châu th́ không hề nản chí lo giúp đỡ các sứ vụ ấy. Nếu không có ǵ thanh tao và cao trọng cho Giáo Hội hơn là ḷng nhiệt thành đem đức tin tới các xứ ngoại giáo và mở rộng khắp nơi vương quốc của Chúa, th́ cũng không có sự ǵ công chính hơn là làm việc tái thiết đạo trong các chốn Á Châu, nơi mà ngày xưa đạo đă thực phồn thịnh.

Trước khi chúng tôi đi Schiras vào nửa đêm, chúng tôi thấy được sự hoan hỷ của tín đồ Mahomed kết thúc mùa Romadan, hay là Mùa Chay, của họ. Nghi lễ được cử hành với mọi thứ phô diễn vui mừng không sao tưởng tượng nổi: người ta chỉ thấy toàn là ca vũ, toàn là tiếng nhạc vang vọng khắp phía. Mắt chúng tôi bỗng thích thú nh́n thấy trên ngọn núi nhỏ mà thành phố nằm dưới chân, hằng hà vô số những ngọn đuốc được thắp sáng lên do một số các vị «Mola» hay là các tu sĩ đạo Mahomed cư ngụ trên núi ấy theo cách sống ẩn tu. Những ánh lửa sáng ấy phần th́ làm tăng niềm vui dân chúng, phần th́ để đảm bảo rằng chay tịnh đă chấm dứt. Ngoài cái dấu hiệu ấy, họ c̣n một dấu khác chắc chắn hơn trên trời là người ta nh́n thấy mặt trăng, bởi v́ mùa Romadan phải kéo dài từ con trăng này đến con trăng kế.

Chúng tôi ra khỏi Schiras ngày 20 tháng Năm, luôn luôn đi bộ trong đêm, và đến Hispaham ngày 11 tháng Sáu, trước lúc mặt trời lên. Chúng tôi đi xuống «caravancera» là nơi công cộng dành cho người qua đường cư trú, trong khi chờ đợi đức cha Beryte có thư trả lời của cha bề trên Ḍng Augustin Bồ Đào Nha. Đức cha đă viết thư cho ngài để xin phép, trong thời gian chúng tôi ở thành phố này, được trú tại ngôi nhà của giám mục thành Babylone mà ngài là cha tổng đại diện. Ngài đă chấp thuận với ḷng nhân từ và thanh lịch. Năm hay sáu ngày đầu tiên của chúng tôi là để đi chào hỏi các tu sĩ và các người Pháp quen thuộc tại Hispaham, cũng như ngài nhân viên Anh quốc và các kẻ lo việc trong Hăng hải thương Ḥa Lan. Họ sống hào nhoáng và phung phí ở đó, mỗi người đều cố gắng cao rao đất nước và việc thương mại của nước ḿnh.

Các nghĩa vụ ấy hoàn tất, v́ chúng tôi cần có một thời gian yên vắng, chúng tôi đă sống tịnh tâm theo khả năng chúng tôi.

Ngay lúc chúng tôi bớt mệt một chút, chúng tôi dành thời giờ ra để lo chuyện trước tiên là t́m phương tiện tiếp tục cuộc hành tŕnh mau lẹ nhất có thể. Hầu thực hiện được chương tŕnh ấy, chúng tôi đàm đạo với các khách du hành lớn tuổi và kinh nghiệm nhất. Tất cả đều cho là nếu đường sang Trung Hoa có khó khăn th́ cũng không phải là không thể được. Ḷng khao khát đến nơi sứ vụ thừa sai đă khiến chúng tôi lấy cuộc hành tŕnh theo nẻo đường bộ Candahar, Agra, Pathna, Niepal, Boutan. Ban đầu, người ta bảo đường này nhiều khó khăn, nhưng chúng tôi tin là ḿnh thực hiện nổi nhờ vào ơn Chúa ban. Chúng tôi vui mừng sẽ là những người đầu tiên hy sinh đi mở một con đường mới hầu chinh phục các linh hồn (5).

Một tháng sau ngày chúng tôi tới đây, chúng tôi sắp sẵn để lên đường th́ chúng tôi nhận ra rằng Chúa chấp nhận ḷng thành của chúng tôi (mà thôi): lúc đó, không thể nào thực hiện được ư đă định v́ chuyện bất ngờ là ba ngàn quân Hung Nô từ Yousbec xâm lăng vào Ba Tư, chiếm các nơi mà chúng tôi cần phải đi qua.

Tôi nghĩ phải ghi chú ra đây những ǵ chúng tôi biết được về con đường dẫn tới tận Trung Hoa. Giữa những thứ làm khó khăn cho việc đi lại này, ngoài những thứ bất tiện quen thuộc, là không bao giờ gặp thấy quán trọ, ít làng mạc, không có trạm liên giao, nguy hiểm cướp bóc, sa mạc phải qua và thiếu lương thực. Đường bảo đảm nhất là đường qua những dăy núi cao. Theo đường này, người ta không thể mang đồ nặng được, dù chẳng là bao đi nữa. Tất cả đều phải chuyển trên lưng vài con dê to. Ở đây, chúng là loại thú chuyên chở và cho sữa để khách đường dùng, và là lương thực an toàn nhất của họ. Các con dê này chỉ dùng ở vài dăy núi, v́ có những núi quá hiểm trở khó khăn mà chẳng có con vật nào leo nổi. Tuy nhiên, có thể t́m được người thay vào là những người sống dưới chân núi, sinh sống bằng việc chở khách đường nào cần tới. Họ mang khách trong một tấm thảm trên vai họ. Ư kiến người ta bảo chúng tôi là cứ phải nấp cho kỹ trong tấm thảm, chớ có ṭ ṃ mà nh́n xuống đường cũng đừng nh́n xuống nơi đi qua. Bởi v́ thường thường đường đi rất hiểm trở và khủng khiếp khi nh́n thấy, chỉ ngó qua thôi cũng đủ để khiến kẻ mạnh dạn nhất sợ run lên rồi. Hốt hoảng và lúng túng, họ sẽ làm người mang họ hụt chân mà rơi vào vực thẳm ghê hồn.

Biết là không thể đi được nữa v́ quân Hung Nô ngăn cản, chúng tôi theo lời khuyên của bạn bè, đặc biệt của hai hay ba người Pháp mới trở về từ cùng tận Ấn Độ. Họ hiểu rất rành rẽ về các xứ mà chúng tôi sẽ đến. Chúng tôi quyết định theo ngài nhân viên Anh quốc sẽ đi Comoron vào tháng Chín tới, rồi từ đó sang Surate. Đối với chúng tôi, đây thực là dịp thuận tiện, v́ đồng hành với người nhân viên này, là người rất liêm chính và lịch thiệp với người Pháp, chúng tôi không phải trả thuế lộ phí hay quan thuế tại Comoron là 10%. Và nhờ đó, chúng tôi được xuống tàu Anh quốc mà đi Surate nữa.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 4

Vài nét đặc thù của thành phố Hispaham, kinh đô xứ Ba tư

 

Thời gian ba tháng lưu lại tại Hispaham đă cho chúng tôi hiểu được một vài nét đặc thù của thành phố này, thành phố mà hiện nay là kinh đô của vương quốc Ba Tư nổi tiếng. Nằm ở vĩ độ 33, thành phố này là nơi cư ngụ của «Sophi», là chốn an cư của những tinh thần cao cả nhất và hàng quư tộc sang trọng nhất của cái xứ vĩ đại này. Nhờ họ, xứ Ba Tư vượt hẳn lên trên mọi dân tộc miền Á Châu, đó là điều không ai phản đối được, v́ cái sang trọng của họ trong y phục và v́ cái thanh lịch của họ trong đối thoại. Nói chung, dân chúng Ba Tư nhă nhặn với người ngoại quốc, nhưng nhất là những kẻ trong bậc tuyệt hảo này.

Chúng tôi đă nhận xét là không hề có nơi nào mà nền khoa học lại được đề cao hơn. Người dân ở đây dấn thân vào khoa học cả bằng tinh thần cũng như công việc và sự kiên nhẫn. Khi một người gắn bó vào một bộ môn khoa học đặc biệt, họ tiếp tục hoàn thiện hoá suốt cuộc đời ḿnh. Nhưng cái làm cho thấy ḷng say mê nồng nhiệt của họ đến thành tựu và để họ xác tín hơn nữa cũng như để họ không bị quên xót sự ǵ, họ nghĩ cái chính đáng là trở thành giáo sư, chỉ dạy cho kẻ khác. Khi tiếng tăm của họ chưa đủ biết đến để có được thính giả, họ bỏ tiền ra mua (tiếng tăm). Bằng cách ấy, họ tŕnh bày ra được cái lư thuyết của họ, với thâm tín rằng phương cách có lợi nhất hầu thấu đạt một bộ môn khoa học là đi dạy cho người khác. Nhưng đó chưa hẳn là khuynh hướng tự nhiên duy nhất thúc đẩy họ vào việc nghiên cứu. Ḷng ước muốn được nổi tiếng cũng thúc đẩy họ rất mạnh, v́ những ai được gọi là tiến sĩ th́ được danh dự lớn và nhà vua lại thường ban nâng đỡ trợ cấp nữa. Nói tóm lại, khuynh hướng thích t́m hiểu nơi họ mạnh đến nỗi những lo lắng quan trọng khác không thể nào khiến họ lăng trí ra được.

Vị quan nhất phẩm của đất nước, mà người ta gọi là «Athemat-Dolet», không có được lấy một phút rảnh rỗi trong việc nước, thế mà vẫn say mê nghiên cứu toán học. Thú tiêu khiển thường của ông là cùng với một số đông các nhà kỹ sư, lo thử nghiệm những máy móc mới, tất cả đều do ông sáng chế ra. Ông c̣n lo cả đến việc nghiên cứu về triết học, thần học và các vấn đề bàn căi trong tôn giáo. Các hoàng thân triều đ́nh, dù mù loà (theo như tập tục tại Ba Tư, người ta đâm mù con mắt những anh em nhà vua để ngăn chận họ nổi loạn trong quốc gia), vẫn bỏ cả đời ḿnh vào việc nghiên cứu. Càng bị mất ánh sáng ban ngày, họ càng t́m nâng cao ánh sáng tinh thần. Cái đáng kinh ngạc hơn cả và cho thấy sức mạnh tài ba của họ là họ hiểu biết rất tường tận về toán học, bộ môn chủ yếu là tùy thuộc vào đội mắt. Họ tính toán rất chính xác các chuyển động trên trời, các tinh tú và tạo đủ thứ các h́nh thể trên mặt bàn với một thứ chất sáp mềm đă dọn sẵn. Họ áp dụng các luật lệ toán số học cần thiết cho việc tính toán thiên văn học một cách dễ dàng không thể tin nổi. Để viết các số, họ dùng tới những cây đũa nhỏ bằng sáp dẻo mà họ xếp trong các ngón tay, rồi đặt trên mặt bàn để kê số bằng h́nh dạng theo như họ quy định. Và để hiểu những ǵ đă viết, họ chỉ cần rờ tay lên các các chữ các số nổi đó (1). Những ai đă biết sức mạnh của trí tưởng tượng nơi những kẻ không hề bị xao lăng v́ nh́n thấy các sự vật, sẽ dễ dàng tin được những sự này.

Nếu người dân xứ Ba Tư có tinh thần thông thái về các khoa học, họ cũng không kém lanh lợi trong các chuyện thương mại và mọi dàn xếp nơi triều đ́nh. Người ta có thể nh́n nhận triều đ́nh xứ Ba Tư như một nhà văn nghệ là nơi tŕnh diễn nhiều vở kịch giá trị và là nơi các nhân tài mỗi ngày đều cho ra những vở điêu luyện mới, gây việc tranh đua không ngớt.

C̣n liên quan tới tôn giáo, người dân xứ Ba Tư cũng không kém t́m hiểu lắng nghe, khác với dân xứ Thổ Nhĩ Kỳ là dân khi hỏi về tôn giáo th́ chỉ biết trả lời bằng cách im lặng hay đe dọa. Người xứ Ba Tư th́ trái lại, lại luôn luôn sẵn sàng đàm đạo với quư vị về các vấn đề khúc mắc nhất trong tôn giáo và sẵn sàng tŕnh bày ra niềm tin của họ. Về chuyện này, để đưa quư vị vào cuộc tranh biện, họ sẽ đặt ra cho quư vị những câu hỏi quan trọng về các mầu nhiệm chính trong đạo (Công giáo) hầu tấn công ngay tức th́ sau đó bằng tất cả những lư luận sai lạc mà con người thường có thói quen mượn từ triết học ra, mỗi lần con người muốn xét đoán những điều thiêng liêng theo quy luật của khả năng tự nhiên.

Những ai muốn bàn luận với người Ba Tư cần phải vững vàng và đừng bao giờ tranh căi với họ nếu như ḿnh không thông thạo ngôn ngữ của họ. V́ vừa tinh tế vừa mưu mẹo, họ sẽ rút tỉa ra từ những câu trả lời của ḿnh những điều, thường v́ do cái mập mờ về ngôn ngữ, sẽ bị người ta hiểu trái nghĩa, sinh ra những chuyện nghi ngờ đáng trách làm tôn giáo ḿnh bị nhóm triết gia nguy hiểm này kinh chê và cười nhạo.

Thành phố Hispaham rất quang đăng, rộng ngang với thành phố Poitiers (bên Pháp), đầy những vườn tược. Và v́ khí hậu nóng bức, người dân Ba Tư làm những khu vườn họ nên rất hiếu kỳ. Thành phố không đông dân so với tỷ lệ đất đai. Bên ngoài nh́n tới, người ta thấy thành phố như một pháo đài, mỗi mái nhà đều trồng cây cao che khuất nhà đi, để tránh nắng chói chang và để tránh cái nh́n của hàng xóm. Mái nhà xây bằng như làm sân để đi dạo và hóng mát. Nhà cất bằng gạch nung dưới nắng, thiết kế dễ coi, và các luật kiến trúc cũng khá được tôn trọng. Dân Ba Tư rất để ư trang hoàng bên trong nhà, lót thảm sang trọng từ trên xuống dưới.

Cái đáng lưu ư nhất tại thành phố Hispaham và là cái thỏa măn tính hiếu kỳ của khách ngoại quốc nhất là một công viên rộng, gọi là «Medan», dài rộng bằng nhau. Một phía là cung điện nhà vua có nhiều khẩu súng đại bác đúc đặt đàng trước. C̣n các toà nhà khác đều xây theo cùng một kiểu mà phía dưới là một hành lang đầy những cửa hàng các tiểu công nghệ với nhiều thứ đồ dễ thương của chốn Đông Phương và xứ Ba Tư.

Trong nhiều khu khác của thành phố c̣n lắm ngôi nhà rất khang trang, với những pḥng ốc trần ṿm cùng các tháp mái tṛn là nơi những kẻ sang trọng tụ họp chuyện tṛ, hút sách và bàn triết sự. Cách thức họ hút sách rất độc đáo và giúp tránh được cái mùi khó chịu: trước khi hút vào, họ đă khéo léo đưa khói thuốc qua một thứ nước rất trong, nhờ một cây cần dài và rỗng mà họ dùng để hút. Do đó, khói đi qua không ngừng trong nước (2).

V́ gần như người Ba Tư nào cũng là dân diễn thuyết, nhà thơ và triết gia, nên thường thấy có ai đó đang tŕnh bày sáng tác của ḿnh trước bạn bè: mỗi người đều lắng nghe tác giả vừa đi qua đi lại giữa căn pḥng vừa tŕnh bày tác phẩm của ḿnh, hoặc là vài bài thơ phú, hoặc là vài bài diễn văn về thiên văn, về luân lư, về chính trị, hay về tôn giáo, hay về Thượng Đế mà người Ba Tư nói đến bằng những từ ngữ rất tuyệt vời. Khi bài diễn thuyết chấm dứt, mỗi cử tọa đều được tự do phát biểu cảm tưởng của ḿnh.

Nơi đây, tôi sẽ không tả ra cái lối đi xinh xắn mà người ta gặp thấy trên con đường tại Julfa, một thành phố nhỏ của người Arménia. Tất cả những ai đă viết về Hispaham đều không bỏ quên thành phố nhỏ này. Tôi chỉ kể sơ rằng cái lối (xinh xắn ấy) dài hai ngàn dặm Ư và rộng bằng hai phần quảng trường triều đ́nh (3), dọc lối đi trồng cây thật cao, che rợp bóng mát bốn mùa. (Cây thuộc loại cây có lá lớn). Dọc lối đi ấy, có suối, có ṿi nước phun, đây đó lại có nhà nghỉ mát của vua, mặt quay ra lối đi. Cuối lộ là một cây cầu đẹp và thật dài, bắc ngang một con sông; dù nước không nhiều, chưa phủ đầy ḷng, nhưng con sông được tô điểm công phu, đáy được xây tráng một mạch, và nước tràn vào làm nên ḍng tuyệt vời, vui mắt.

Tôi chỉ có thể nói một lời nhỏ về t́nh trạng đạo thánh của chúng tôi tại Hispaham: thấy được một số ít các gia đ́nh Công giáo, phần lớn làm nghề tiểu công nghệ hay thương gia ngoại quốc. Chúng tôi chưa hề gặp trên đường chúng tôi đi một thành phố nào mà lại không có thừa sai: các cha Ḍng Augustinô người Bồ Đào Nha, các cha Ḍng Cát-minh và các cha Ḍng Tên đă lần lượt đến định cư tại đó từ mấy năm qua, với sự chấp thuận của hoàng thân, và làm các phận vụ ḿnh với khá nhiều tự do. Các cha Ḍng Tên dựng nhà tại Julfa, một thành phố nhỏ cách Hispaham một dặm đường, gồm toàn các người Arménia, t́m được nhiều thuận lợi cho việc lối kéo các Kitô hữu ly khai trở lại. Đó là hoa quả quan trọng mà người ta có thể gặt hái được, không những tại Hispaham, mà c̣n trong khắp các xứ dân Ba Tư. Tuy nhiên ở nơi này, người ta gặp một trở ngại đặc biệt cho việc trở lại là thái độ chống đối, không muốn học hỏi bất kỳ một thứ ǵ nơi người nước ngoài. Trước người nước ngoài, họ chỉ biết họ trong mọi sự. Họ có thói quen sống cuộc sống cẩu thả. Dù người ta có chỉ cho thấy những sai lầm của họ, họ vẫn thường tỏ ra ngang ngược hơn và xa cách hơn trong việc hối cải. Những kẻ vốn đi t́m cái hạnh phúc nơi thú vui trần gian này, thật khó mà sống theo được cái tinh tuyền của đạo thánh chúng ta.

Là điều lợi ích và vinh dự cho đức tin Công Giáo khi chăm lo săn sóc cho các người thợ Phúc Âm tại kinh đô một xứ thật lớn như thế này. Cũng v́ lư do trên mà Ṭa Thánh đă đặt ṭa giám mục Babylone thành một tước hiệu và sát nhập thêm vào đó giáo hạt Hispaham, mong tới khi có thể ban một tước hiệu riêng (cho thành Hispaham). Mục đích là để cho sứ vụ thừa sai nơi này có được một giám mục Công giáo hầu phục vụ những dân tộc chỉ biết ca ngợi cái lớn lao của chính ḿnh (4).

Để chỉ dẫn cho những ai muốn du hành theo lối này: họ nên biết là rời xứ Thổ Nhĩ Kỳ là rời một nơi bách hại. Vào xứ Ba Tư, người ta rất có thể ăn mặc theo lối người Pháp, mũ nón che nóng rất bảo đảm (5). Và c̣n nên giữ tôn chỉ này: tốt hơn là đi vào sáng sớm, ăn uống thanh đạm và chớ nên đi bộ, v́ không như thế, khó mà sống được. Người ta c̣n phải coi chừng cái gian lận của đám người đầy tớ bản xứ mà b́nh thường là những quân trộm cướp, đếm đồ th́ đếm có phân nửa hay hai phần ba hơn là đếm để mua (6). Cách chữa trị hay nhất là đến cư ngụ nơi các tu sĩ thừa sai là những người rất từ thiện và thích phục vụ khi chúng ta xin họ đi mua những đồ cần thiết cho việc đi dường.

Đừng bao giờ đem vàng ra đổi tại xứ Ba Tư, v́ giá rất thấp; chúng tôi đă mất cứ mỗi (đơn vị) «pistolle» Tây Ban Nha là 20 hào 6 xu: nếu đổi tiền vàng Venize (7) th́ bị mất tương đối ít hơn. Nhưng tốt hơn cả là đổi vàng tại Bassora, v́ bị thiệt ít hơn. Nếu người ta có thể đêm theo tiền quan (Âu Châu) th́ sẽ không hề bị thất thoát, trái lại đổi tại Bassora sang tiền Ba Tư th́ lại c̣n có thêm lợi chút ít nữa. Nếu ai muốn dùng của đi đường là cẩm thạch hay hoàng phách, họ sẽ được hài ḷng. Nếu lo liệu mang theo được vài cái đồng hồ đeo tay thứ tốt th́ giá cả (tại đây) cũng như tại bên Pháp vậy. Cái lối buôn bán nhỏ này người ta cần tới để có được dễ dàng một chút tiền bạc địa phương.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 5

Giám mục Beryte khởi hành từ Hispaham đến Gomeron

 

Theo quyết định của chúng tôi là tiếp tục đi đến Trung Hoa qua Gomeron, Surate, Massulpatan, Tenasserim, vân vân..., chúng tôi rời Hispaham với người nhân viên Anh quốc. Đi luôn luôn vào ban đêm, chúng tôi tới Schiras ngày 8 tháng Mười. Chúng tôi phải khổ sở v́ hai thái cực: suốt đêm trời lạnh buốt đến độ nước trong chai đóng thành băng cả, và ban ngày th́ trời nóng cháy như thiêu như đốt. Trên đường, th́ luôn luôn đi xuống, tuy chúng tôi chỉ gặp có mỗi một ḥn núi cao và dốc thẳng đặc biệt. Chúng tôi lần xuống vào ban đêm, ngă lên ngă xuống nhiều lần.

Chúng tôi lưu lại tại Schiras bốn ngày trời.

Chúng tôi đến Lara ngày 20, và sau một ngày nghỉ ngơi, chúng tôi lại tiếp tục đường đến Gomeron vào ngày 30 trong tháng. Chúng tôi mất tất cả trong hành tŕnh này là 30 ngày đi và 5 ngày nghỉ.

Đường từ Hispaham đến Gomeron khá hiền lành và dễ chịu hơn đường vào xứ Ba Tư. V́ đi với nhân viên Anh quốc, chúng tôi không phải lo ǵ thuế lộ tŕnh. Ông ta không muốn cho chúng tôi ngồi bàn ăn riêng, phải ngồi chung bàn với ông ta, nên chúng tôi không tài nào chống lại cái nhă nhặn của ông ta. Tối nào chúng tôi cũng nghỉ ngơi tại nhà «caravancera» là quán trọ địa phương. Nhà giống như những sảnh đường lớn, chia làm nhiều pḥng nhỏ, trong ấy chỉ thấy có chén bát và những thứ ḿnh đem đến.

Người Ba Tư rất hiếu kỳ trong chuyện xây dựng rải rác các nơi những ngôi nhà «caravancera» này. Thường khi họ gần chết, họ để lại của làm phúc để xây những ngôi nhà mới và sửa chữa những ngôi nhà cũ kỹ.

Chúng tôi c̣n được một cái lợi khác khi đồng hành với quư vị người Anh quốc là không hề lo ǵ chuyện trộm cướp. Thực sự xứ Ba Tư rất kỹ lưỡng về điểm này: các quan trấn để tâm quét sạch bọn này khỏi nơi họ cai trị và phải giải quyết mọi chuyện trộm cắp xảy ra trên lănh địa của họ. Chúng tôi đă chứng kiến một chuyện trong cuộc hành tŕnh: một người Bồ Đào Nha biết luật lệ bản xứ bị mất trộm lúc từ Ấn Độ tới Hispaham. Ông ta cầu cứu tới quan trấn, quan chỉ ngọt ngào hứa xuông. Người Bồ Đào Nha này thưa tới quan nhất triều đ́nh nhà vua. Triều đ́nh cho lệnh xuống quan trấn địa phương, v́ không t́m ra thủ phạm, phải biếu tặng cho người Bồ Đào Nha ấy hai con ngựa đẹp.

Lara hay Lar là một thành phố lớn và đẹp, xây dựng chu đáo, tường thành bảo vệ kiên cố. Ở đó có một chợ công cộng, gọi là bazar, nổi tiếng để làm chợ phiên. Chợ «bazar» xây rất vững chắc. Tại Pháp, không thấy có cái ǵ gần giống như vậy. Chợ «bazar» xây bằng gạch, có vô số đường đi đẹp, thẳng, sáng sủa và có mái che h́nh ṿng cung. Tại đấy, các lái buôn vùng lân cận đến họp. Cũng có vô số trái cây, nhưng nước th́ lại rất độc, gây ra những bện hoạn ác nghiệt, nguy hiểm tới tính mạng. Người ta cho rằng nước độc, chảy gần tới tận Gomeron, là v́ một vài loại sán, thân khá dài, sinh sản trong háng trong đùi, ẩn trong các thớ thịt mà gậm dấm từ từ. Khi ḿnh phát hiện ra chúng, phải mổ ra một đường để t́m thấy đầu của chúng, dùng cái đũa kéo chúng ra bằng cách xoay ṿng chúng. Mỗi ngày, cứ xoay ṿng ṿng thế mà loại chúng ra, chúng dài có đến sáu bộ. Nếu để chúng bị đứt đoạn, phần c̣n lại sẽ có nguy cơ gây tổn hại nặng. Phương cách đối đầu với nước độc này là uống rượu thay nước, hoặc không uống nước nữa, và phải cẩn thận khi nước thấm vào quần áo.

Ông nhân viên Anh quốc vẫn tiếp tục lịch thiệp và giúp đỡ chúng tôi, và với tính cách bằng hữu, ông cho chúng tôi cư trú trong ngôi nhà thuộc Hăng Anh quốc qua suốt thời kỳ chúng tôi ở tại Gomeron. Ông cho phép chúng tôi được thực hành tất cả việc tôn giáo kể luôn cả chuyện làm lễ mà không hề gây xáo động. Một vài gia đ́nh Công giáo đến dự lễ vào các ngày lễ. Chúng tôi được yên ủi khi dạy dỗ và rửa tội cho một cậu thiếu niên quăng 14 hay 15 tuổi.

Tôi xin nói một lời với những người cùng tín ngưỡng với chúng tôi rằng những quư vị người Anh quốc càng dễ chịu và hay giúp người bao nhiêu th́ lại càng tỏ ra khó sống bây nhiêu khi vào những lúc họ cần phải uống. Nhưng phải theo sức ḿnh mà khiêm tốn đối kháng lại, chúng tôi biết là họ vốn kính trọng những người họ gặp thấy xét theo tư cách người đó, và họ thích ép uổng những ai nhẹ dạ để rồi họ quay ra khinh chê sau đó.

Thành phố Gomeron đầy những người thuộc đủ thứ tôn giáo. Khí hậu rất độc và người ta có thể gọi là nhà mồ của người Âu Châu. Mặc dù chúng tôi ở vào tháng Mười Một, song trời nóng đến đổ mồ hôi. Người Ḥa Lan bỏ thành phố vào mùa hè đến ngụ tại Lara, trong một căn nhà đẹp đẽ mà họ có tại đó, nơi này chúng tôi có trú ngụ khi đi qua.

Tôi ngạc nhiên thấy ḿnh ở gần đường xích đạo và mặt trời nóng như lửa trên đầu mà khí hậu lại dễ chịu hơn và sức nóng lại ít cay nghiệt hơn ở các vùng ven vịnh Ba Tư là nơi đôi khi gió nóng bức đến độ ḿnh có cảm tưởng như bị nghẹt thở. Ai đă nghĩ là vùng nhiệt đới là vùng không thể ở được th́ thực là sai lầm lớn. Họ chẳng biết chi về những bí mật khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa. Ngài đă dùng buổi đêm dài, sương mát, gió nhẹ liên tục, vô số suối thác và mây trời để làm ôn ḥa phần địa cầu này cho con người đủ sức sinh sống. Do đó cần ghi nhận rằng nóng nhiều hay nóng ít không phải là do gần hay xa mặt trời, nhưng nhất là tùy theo địa thế nơi đó, địa thế núi non, đất tốt hay xấu và gió các mùa thổi tới.

Dù chúng tôi có ao ước bỏ được vùng khi hậu nghiệt ngă này, chúng tôi chỉ c̣ thể ra đi vào ngày 29 tháng Mười Một mà thôi.

Thời kỳ thuận lợi để tới Gomeron rồi xuống tàu đi Surate là từ tháng Mười Một đến đầu tháng Ba. Chúng tôi đă biết là những ai muốn đi đường này mà gặp cản trở nào đó không thể tới Bassora vào tháng Mười hầu theo tàu Anh quốc hay tàu nào đó sang Surate, họ không có cách nào mà thay thế lại được. Bởi v́ các thuyền bè người More và người lương tại Bassora hay đi Gomeron, và luôn luôn, vào bất kỳ lúc nào, thuyền bè của họ đều đi Banderic và Bandercongo; rồi từ hai cảng sau, người ta luôn có dịp để đi Gomeron. Thực sự đi như vậy không tiện lợi và không an toàn được như đi theo tàu người Anh. Mọi người đều thuyết phục chúng tôi đi trên tàu người Anh. Và cũng đă kinh nghiệm việc đi tàu với những người này, chúng tôi nghĩ là người ta có thể dùng được, trong hoàn cảnh lỡ các tàu bè khác (1).

Phí tổn di chuyển tại Ba Tư rất là rẻ: chúng tôi chỉ phải trả cho việc chuyên chở 100 cân «main», tức khoảng 150 cân xứ Pháp, là 10 quan tiền, từ Hispaham tới Gomeron, mà không phải chi đồ ăn nào cho lừa và người đánh lừa. Một người, nếu đi bộ theo hay vừa trên lưng lừa vừa đi bộ, th́ tính là 31 cân; nếu muốn có riêng một con lừa cho ḿnh th́ tính là 60 hay 70 cân, tức khoảng hai phần ba số tiền 20 quan rưỡi. C̣n về ăn uống, giá cả cũng rất phải chăng, v́ ăn cơm, trái cây, rau cỏ, thỉnh thoảng cũng có được gà vịt hay vài miếng thịt dê hoặc cừu.

Người ta trả 15 quan tiền mỗi đầu người, từ Gomeron sang Surate; chưa kể đến chuyện người ta c̣n phải trả, theo lệ địa phương, chỗ ḿnh ở trong tàu, nhiều ít tùy theo nơi. Chúng tôi đưa cho ông thuyền trưởng là 60 quan trả tiền tàu biển cho 4 người chúng tôi và 21 quan cho chỗ chúng tôi trong tàu. Những ai đi sau chúng tôi phải nhớ giao hẹn với ông thuyền trưởng trước khi xuống tàu.

Ông nhân viên người Anh quốc vẫn giữ lịch thiệp với chúng tôi. Chúng tôi đă nhận của ông nhiều ân huệ, song đức cha Beryte không thể nào ép ông nhận dược tặng vật của chúng tôi.

Trong tàu đi biển đến Surate, chúng tôi đă chứng kiến cảnh tượng khiến chúng tôi vừa cười vừa thương cái đơn sơ dị đoan của một người lương giáo (2). Theo tôn giáo của ông ta, đụng tới thịt heo là một điều ghê tởm, nên để đùa giỡn, một tay thủy thủ Anh liệng ngay một miếng thịt heo vào mặt ông ta. Ông ta tin là ḿnh đă phạm một tội cực nặng, và để trừ tội và thanh tẩy, ông nhất định đâm đầu xuống biển, nhưng người ta cản lại. Những người cùng tôn giáo với ông, thay vào đó, đă lấy không biết bao nhiêu là xô nước mà xối lên đâu ông ta hầu xóa ngay dấu vết và điều ô nhục ông ta đă chịu. Các thủy thủ người Anh tham dự cả vào chuyện này một hồi lâu, chuyện người chẳng được rửa sạch cũng chẳng được xoá tội (3).

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 6

Giám mục Beryte tới Surate và hành tŕnh tại vùng Ấn Độ

 

Ngày 23 tháng Chạp, chúng tôi đến cảng Suali, cách Surate bốn hoặc năm ngày trời. Tôi xuống Surate theo ông nhân viên người Anh để lănh ư kiến trước nơi các cha Ḍng Capuxanh về cách thức nào bảo đảm chúng tôi trước cái khắc khe của các quan trấn thuế vụ tại thành phố này. Tôi đă nghiệm thấy y như người ta đă nói trước: tôi vừa vào trấn, với vài tay lái buôn người Anh khác, th́ họ đă lại phía chúng tôi xem xét chu đáo đến nỗi không có một nếp gấp nào hay kẽ hở nào trên chúng tôi mà họ không lục xét một cách rất khó coi. Họ sẽ gần như lột trần quư vị ra mà xét cho được kỹ hơn. Trước hết, người ta tŕnh ra một cái giương, họ lật ngược ra, trước tiên xem xét cái giương, rồi liệt kê tất cả những thứ trong đó, đánh giá như họ thích. Một tay thư kư ghi chú vào sổ bộ, phải đóng tiền. Họ cắt vụn cả đến miếng xà bông, sợ người ta dấu đá quư hay ngọc trong đấy. Đó là thứ họ t́m kiếm hơn cả, v́ họ c̣n phải trả tiền trả bạc lên những trấn thuế vụ lớn. Cách chữa chạy duy nhất là ráng mà chịu vậy, hoặc là t́m đưa từ Surate ra, bằng lối cong quẹo nào đó, một ông bạn để ông ta sẽ kín đáo đem những thứ quư giá của quư bạn vào thành.

Họ đóng thuế 4% tất cả vàng, vàng bằng tiền hay không bằng tiền; 2%, đồ bạc; 4% tất cả những thứ đánh giá được. Nếu có thứ ǵ quư giá, khó mà thoát khỏi, hoặc là họ lấy luôn, hoặc là họ trả như họ thích. Chính vào lúc như thế, phải thực hiện từng chữ lời khuyên của Chúa là nếu người ta lột áo sống của ngươi, th́ ngươi chớ kháng cự làm chi.

Ngay khi chúng tôi vào Surate, chúng tôi liền đến gặp các cha Ḍng Capuxanh người Pháp là những thừa sai duy nhất định cư tại đó. Khi các cha biết là chúng tôi ở đó, các cha liền đến giúp đỡ chúng tôi. Một trong các cha mượn lấy chiếc xe ngựa của viên chỉ huy người Ḥa Lan, nhờ lời cha khuyên và nhờ uy tín của cha, chúng tôi thoát được một phần các trấn thuế vụ ác nghiệt trên. Sau đó, cha dẫn chúng tôi về cư trú trong ngôi nhà nhỏ của các cha. Đó là một nhà tế bần dành cho các thừa sai khi qua lại vùng Ấn Độ Dương này.

Chúng tôi học hỏi được rất nhiều khi nói chuyện với các cha, thực t́nh rất đạo đức và tông đồ. Từ nhiều năm rồi, các cha làm việc tại Surate. Các cha đều được mọi người quư mến, ngay cả người Anh và người Ḥa Lan. Cái khiến cho các cha được sùng kính hơn cả là các cha chuyên cần thi hành nghĩa vụ của ḿnh, nêu gương lành gương sáng và xa hẳn những chuyện thế gian này.

Chính vào lúc đó, đức cha Beryte nhận được tin từ Goa (1) là Bồ Đào Nha đă ra lệnh cho các quan toàn quyền vùng Ấn Độ Dương phải chận giữ ba giám mục người Pháp và giải các ngài về Lisbonne (2) ngay vào cơ hội đầu tiên. Tin này không hề làm xao xuyến tinh thần đức cha Beryte chút nào, phần v́ ngài không hề cần phải đi qua các phần đất thuộc Bồ Đào Nha để tiếp tục con đường (3), phần v́ ngài đă chuẩn bị sẵn cho các tai nạn có thể sẽ xảy đến cho ngài rồi (4).

V́ sợ các lệnh trên, nhiều kẻ đă muốn đe dọa ngài nhưng ngài bỏ qua một bên, không hề ngạc nhiên. Ngài nghĩ là v́ Giáo Hội đă trao cho ngài sứ vụ thừa sai Trung Hoa, th́ ngài phải chịu đựng tất cả để đến được đến nơi đó. Ngài không hề nghĩ rằng Chúa lại đi bao che những đối kháng mà người ta đang đe dọa ngài.

Từ ngày đó, chúng tôi biết được là những lệnh truyền trên đă được nhà vua Bồ Đào Nha ban ra theo lời nài xin của một vài cá nhân tại Ấn Độ Dương, dưới chiêu bài rằng là một điều nhục nhă cho xứ Bồ Đào Nha khi người ta dùng những kẻ khác hơn là người Bồ Đào Nha để rao giảng đức tin giữa các dân tộc Á Châu. (Những cá nhân này c̣n nói) rằng việc ngày xưa nước Bồ Đào Nha đă dầy công để thiết lập đạo thánh tại vùng Ấn Độ Dương có vẻ xứng đáng công trạng, nên người ta đă ban cho Bồ Đào Nha một quyền lợi là để tiếp tục việc rao giảng này, người ta chỉ dùng đến Bồ Đào Nha mà loại trừ các nước khác ra (5).

Tôi không phải là người đứng ra xem xét nơi đây cái ḷng cao ngạo đó, tôi biết cái kính trọng mà người ta phải giữ đối với các sự đến từ các bậc quyền thế vua quan. Tôi chỉ nói rằng những hệ quả, mà người ta muốn rút ra từ cái gọi là quyền lợi trên, có thể giúp lợi cho quốc gia (6) đưa ra, những cũng có thể phương hại vô cùng cho sự phát triển đức tin vào sau đó. Qua bao nhiêu thí dụ thật thê thảm, kinh nghiệm chỉ có cho thấy toàn là những bất trắc xảy đến, khi người ta để việc cao rao đức tin lệ thuộc vào duy một quốc gia. Việc cao rao đức tin ấy giữa các dân tộc ngoại giáo là những dân hoàn toàn không thần phục cái quốc gia này, bởi v́ họ thường xuyên bách hại các nhà rao giảng và triệt hạ họ, không phải v́ thù ghét tôn giáo họ cao rao cho bằng thù ghét cái quốc gia hính có vẻ như đă sai họ đi, điều tạo ra ngay những bóng mờ (nghi kỵ rồi). Chính v́ vậy, Toà Thánh đă luôn luôn giữ cho ḿnh cái tự do được lần lượt sai gửi các nhà rao giảng vào những quốc gia ngoại giáo là những quốc gia chỉ lệ thuộc vào những vua quan hợp pháp của họ mà thôi. Toà Thánh sai họ đi, theo xét định của Toà Thánh (để chọn) những người đặc biệt (thích hợp) nhất, tùy theo sự cởi mở dễ dăi (nơi quốc gia ngoại giáo) mà Đấng Quan Pḥng ban cho. Chính Toà Thánh, khi kêu gọi các giám mục người Pháp vào thời gian sau này, hướng dẫn họ đi qua miền Ấn Độ Dương và ǵn giữ họ chống lại những vùng vẫy của các kẻ thù họ giữa nhiều nguy nan, đă cho thấy bằng các chứng cớ rơ rệt rằng Toà Thánh muốn dùng họ cho việc hoán cải những dân tộc tại đại vương quốc Trung Hoa là nơi cửa đă mở cho họ, như chúng ta sẽ thấy trong đoạn tiếp của Kư Sự này.

Trong thời kỳ chúng tôi ở tại Surate, đức cha Beryte đă được các cha Capuxanh mời làm Phép xức dầu thánh Thêm Sức cho khoảng 120 người (7) và ban Phép Rửa Tội cho 3 người ngoại.

Để chỉ dẫn cho kẻ du hành, nên lưu ư là giá vàng tại Ấn Độ khác với giá tại Ba Tư là chỗ chúng tôi đă thiệt cho mỗi quan tiền «pistolle» Tây Ban Nha là 23 xu 6 hào, thay v́ ở Ấn Độ chúng tôi lợi được là 3 xu.

Surate là một thành phố lớn , giầu có nhờ vấn đề thương mại, nơi các dân mọi chốn địa cầu đều dồn tới: người Anh hằng năm vẫn gửi tàu bè đến đây. Đó là một điều thuận tiện chắc chắn cho ai muốn đi tới xứ này, hay muốn gửi các gói đồ hay thứ ǵ khác: họ chỉ mất có 6 hoặc 7 tháng đi biển và không hề làm khó dễ đối với ai cần đến họ. Mặc dù thành phố Surate đầy những lái buôn giàu có, nhưng xây dựng tồi tệ và việc bảo vệ không có, đó là nguyên nhân sự suy tàn của thành phố này: từ vài năm trước đây, có một người tên gọi là Sivagi, thần dân xứ Mông Cổ, đă nổi loạn và tàn phá thành phố năm vừa qua, đến nỗi thiệt hại gây ra tính đến cả 3 triệu quan. Những nhà cửa người Ḥa Lan và người Anh xây vững chắc và có bảo vệ, đă thoát khỏi cơn điên cuồng của tay nổi loạn này, nhờ sức kháng cự của họ.

Thật khó mà nói cho chính xác về tôn giáo tại Ấn Độ v́ rất nhiều giáo phái khác nhau. Hoàng thân, triều đ́nh và gần như toàn giới quư tộc là tín đồ Mahomed. Những người khác là lương dân, tín đồ Ngụy giáo, dù những kẻ thông minh nhất trong họ nh́n nhận sự hiện hữu và quan pḥng của một Thượng Đế mà mọi sự tùy thuộc vào Ngài. Những người này không buông theo sự thờ phượng các ngụy thần. Là một điều ghê tởm khi người ta vào các đền thờ, khi thấy những khuôn mặt quái dị của các ngụy thần với h́nh hài các thú vật thuộc đủ mọi giống loại. Người ta không c̣n biết ngụy thần nào quái đản nhất nữa, hay là, khi gặp trên bàn thờ một con thú đầu lợn ḷi, sừng ḅ, đuôi các sấu, chân chim ưng, hay là, khi thấy dân chúng sùng bái kính cẩn một h́nh tượng gớm ghiếc mà họ đầy sợ hăi nếu tượng có chút cử động và tỏ ra một dấu hiệu sinh động nhỏ mọn nào đó.

Nhà tiên tri nổi tiếng nhất của họ gọi là Ram. Một vài kẻ tôn thờ Ram như Thần của họ; một vài kẻ khác, để chữa chạy cái ngụy tín của ḿnh, th́ nói là họ tôn thờ Thần ngự trong con người của Ram. Khi họ chào hỏi nhau, họ gọi đến tên Ram này.

Họ thờ cúng một cái cây nọ có một đặc tính độc đáo: cây mang cành lá dài rủ xuống mặt đất, và cành rễ mọc ra, từ rễ đó lại sinh ra một cây mới; cây mới đó cũng có cành lá dài phát triển như vậy. Cứ như thế, từ cây thứ nhất sinh sản bằng những cành lá dài của nó, tạo nên một khu rừng mà những lương dân tin là có chi đó thần linh.

Họ có một vài nơi rất nổi tiếng mà họ đến hành hương: nhất là họ đến sông Hằng Hà mà họ tin là nước sông có quyền lực rửa sạch tội lỗi. Tại Bengale có một ngụy thần mà họ tin là sẽ trở nên thánh nếu hành hương được tới đó: người ta thờ kính đặc biệt ngụy thần này vào một số ngày: đầy những mê tín dị đoan và kích động, lúc người ta đem ngụy thần ấy ra nơi công cộng, dân chúng lấy làm sung sướng gieo ḿnh dưới bánh xe, tin rằng họ sẽ may mắn nhất trần gian nếu họ bị thương hoặc bị bánh xe nghiền nát. Họ cũng có những cộng đoàn dùng để lo việc thờ phượng các ngụy thần, điều hành bởi các vị bề trên. Chúng tôi đă thấy một cộng đoàn như thế tại Surate mà đối thoại với họ, chúng tôi thấy họ thật hiền từ và chân thành. Các cộng đoàn này có những việc thực hành và những giờ chiêm niệm quy định, nhưng họ không coi là chuyện xao lăng tinh thần trong khi chiêm niệm mà đi lấy thuốc hút.

Luân lư họ dạy khá phù hợp với sự công chính, như không làm hại đến ai, phải từ bi, phải ǵn giữ ngũ quan, phải biết sợ khi mở cửa cho kẻ tội lỗi, phải lo thanh tẩy linh hồn khỏi các khuynh hướng xấu, phải chăm lo cầu nguyện và nhất là phải giữ tay ḿnh khỏi lấm máu thú vật.

Họ không tin là có tội nào lớn hơn là tội làm mất nơi thú vật sự sống mà Thượng Đế đă ban cho chúng và người ta không thể hoàn lại sự sống cho chúng sau khi đă giết chúng. Người ta chỉ mới tạm thấy cái đơn sơ và cái dị đoan của họ trong chuyện này dẫn tới đâu: họ phải kềm hăm hơi thở sợ hít trúng vài con muỗi mắt đáng thương bay lại quá gần miệng họ. Cũng v́ thế, họ không tùy tiện thắp đèn nến lên sợ con muỗi bất cẩn nào bay qua tự đốt chết ḿnh; kẻ khác c̣n cẩn thận lau chùi kỹ lưỡng chỗ ḿnh ngồi để xua đuổi đi những con bọ chắt nhỏ mọn nhất.

Một trong các việc lành họ thỉnh thoảng lại làm là mua chuộc lại bằng tiền bạc những con vật mà người Công giáo hay người Mahomed tính đem làm thịt. Vào những ngày lễ trọng, họ đến gặp các quan cầm quyền, biếu xén quà cáp hậu hĩ mà xin quan ra lệnh cấm sát sinh thú vật trong ṿng 8 ngày. Khi các người Bồ Đào Nha không c̣n tiền c̣n bạc, họ đi bắt vài con chim, đem ra rêu rao ngoài đường rằng họ sẽ làm thịt quay rô ti để ăn chiều. Thế là những kẻ hiền lành, cuồng nhiệt v́ cái mê tín của ḿnh, liền đến mua chuộc lấy. Điều này làm cho cuộc sống họ rất thanh đạm và gầy guộc, chỉ sống bằng cơm gạo và rau cỏ.

Các giáo phái của họ phần lớn khác nhau không những về sự sai biệt trong ư kiến và nghi thức, mà c̣n về cái khổ hạnh. Mỗi giáo phái cẩn thận ḍ xét giáo phái khác qua các dấu hiệu bề ngoài. Có giáo phái th́ chỉ ăn những ǵ do chính bàn tay họ sửa soạn ra, chính họ làm ra với nhiều huyền hoặc, rất đỗi điên cuồng mà tôi không dám kể ra: phải làm ở nơi nào đó chứ không thể nào ở nơi nào khác được, không để cho một ai trông thấy, họ đóng ḿnh trong một nơi mà họ giới hạn ranh giới bằng một ṿng tṛn, không dám ra khỏi trong suốt lúc họ chuẩn bị món ăn huyền bí ấy.

Tôi c̣n bỏ qua nhiều thứ khác sợ làm phiền quư bạn đọc.

Trong tất cả các giáo phái, giáo phái Brachmane (8) là được kính nể hơn cả như giáo phái thiêng liêng nhất. Họ cũng tin rằng ḿnh ở một mức độ quư phái nào đó cao hơn tất cả các giáo phái khác. Để được biết đến, họ mang một dấu hiệu đặc biệt là một cây gậy với một phướn trắng chỉ sự khiết tịnh mà họ khấn giữ. Là chuyện chẳng bao giờ hoàn tất, nếu tôi muốn diễn tả ra những thứ độc đáo của các giáo phái: cái khổ hạnh của giáo phái này hay cái khó nghèo bên ngoài của giáo phái nọ chỉ đầy những hư danh mà họ đem ra khoe khoang phân b́. Chúng tôi nhận ra rơ sự ấy, v́ các người khất thực tự nguyện này đến xin chúng tôi, kiêu căng như thể đe dọa chúng tôi vậy. Vị hoàng thân đang trị v́ hôm nay tại xứ Mông Cổ đă cho được cái ư mà người ta phải quan niệm về các tu sĩ khuất thực ấy:

Ông ta là một trong những người con trai của hoàng đế, qua nhiều năm khấn làm «fakir», nghĩa là người xuất thế. Vào cuối thời tu tịnh, ông buồn chán nên mang ư đồ chiếm vương quốc, triệt hạ ba người anh anh ruột của ông. Ông t́m được phương cách đưa vào phe phái ḿnh những thầy tu của những giáo phái ấy là những kẻ đă khấn khất thực và khổ hạnh. Ông tạo thành một đạo binh, nhờ đó ông đạt tới các ư đồ của ḿnh và ngày nay đă chiếm lĩnh được các xứ sở rộng lớn nơi đây mà ta gọi là Ấn Độ (9).

Nhưng đây là chuyện đưa ra ngoài đề tài của tôi, tôi xin lấy lại phần tiếp của cuộc hành tŕnh của chúng tôi từ Surate.

Tại đó chúng tôi biết được là khi tháng Ba tới rồi th́ không c̣n nói đến chuyện hành tŕnh tại Ấn Độ được nữa, v́ mưa xối xả liên tục sẽ làm đường xá không thể đi được trong ṿng bốn tháng trời. Để tránh thời kỳ này, chúng tôi hối hả khởi hành khỏi Surate: những trận mưa gần như liên tục mặc dù tại Ấn Độ mặt trời nóng như lửa. Tuy nhiên đó lại là mùa đông, thật khác với mùa đông bên chúng ta là mùa mặt trời đi xa, ở đây mặt trời lại ở thật gần. Mùa đông chúng ta khiến cây cối mất lá xanh, đất đai mất mùa màng, thiên nhiên như phải ngừng thở v́ cái lạnh giá và nước đóng băng liền đó. Nhưng mùa đông Ấn Độ lại đem hiệu quả khác hẳn: mùa đông đem mầu mỡ cho đất, đem lá cho cây, tạo mới cho muôn vật.

Chúng tôi ra khỏi Surate ngày 21 tháng Giêng năm 1662. Trong ṿng 41 ngày đi bộ trên những chiếc xe ḅ địa phương, xuyên qua nhiều tỉnh thành xứ Mông Cổ, chúng tôi đến Massulpatan ngày 6 tháng Ba để khỏi lỡ những chuyến tàu người More đi Tenasserim vào thời kỳ ấy.

Chúng tôi thuê 4 chiếc xe kéo để chở chúng tôi và một đoàn tùy tùng nhỏ: người ta đă khuyên chúng tôi lấy 2 người đầy tớ và 3 người hộ vệ để ban đêm gác xe và chúng tôi nữa khi phải nghỉ đêm tại mỗi trạm, v́ dân chúng tại đây không dám tiếp người Kitô hữu trong nhà của họ sợ bị phạm thánh. Xe kéo người ta dùng tại Ấn Độ rất tiện lợi, cũng phủ kín như xe ngựa tại Âu Châu, chỉ có hai bánh để đặt toàn thân xe lên trên, do ḅ kéo. Ḅ tại xứ này khéo léo và đi rất nhanh. Để điều khiển chúng, người ta xỏ giây cương vào lỗ mũi của chúng mà người ta đă chọc thủng khi chúng c̣n bé.

Người Anh và người Ḥa Lan tại Surate có những chiếc xe làm theo kiểu Âu Châu, cho ḅ kéo. Ḅ ở đây có chân cao, khẳng khiu mà người ta ban ơn cho chúng bằng cách tô điểm cặp sừng chúng với những túm lông đủ màu sắc, đeo vàng, bạc hay đồng lên nữa. Suốt cuộc hành tŕnh, chúng tôi phải cực không ít v́ cái mê tín dị đoan của người Ấn Độ không bao giờ muốn bán cho chúng tôi một con gà con vịt nào v́ biết chúng tôi sẽ làm thịt ăn. Bởi vậy, chúng tôi đành phải vui ḷng với những thức ăn địa phương, cũng tạm đủ khi ḿnh không bị ốm đau ǵ. Ấn Độ có đầy rẫy làng mạc nơi có lúa gạo, rau cỏ, trái cây và cả bánh ḿ lúa mạch nữa. Trong những thành phố lớn, người ta t́m được nhiều thứ khác nữa. Người đạo Mahomed bán đồ thỏa thích. Trên đường đi, cho dù người Bagnanes (10) rất khe khắt, nhưng người ta vẫn t́m ra được thịt thú rừng: thú đầy dẫy khắp nơi, người ta săn dễ dàng, và v́ xứ nóng nên chúng sinh sản rất nhiều, người lương lại không hề đụng chạm tới chúng v́ mê tín dị đoan.

Trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều thành tŕ khác nhau và rất khó mà chiếm được v́ (địa thế) thiên nhiên và nghệ thuật (xây dựng), phần lớn đều nằm trên núi đá cao và nhiều chỗ hiểm trở đến nỗi những bức tường thành cũng không thể xây thẳng được. Hiện nay, phần lớn những thành tŕ này đều đă bị tay phiến loạn Sivagi chiếm, là kẻ mà chúng tôi đă nói phía trước.

Chúng tôi đi đến nơi trông thấy được thành phố Oletabal, xây trên ngọn núi đá tṛn vo. Người ta quả quyết với chúng tôi rằng thành phố ấy có ba lớp tường bao bọc chung quanh núi đá: lớp thứ nhất bao toàn thành phố và ngọn núi đá, lớp thứ hai một phần thành phố, và lớp thứ ba phần cao nhất của núi đá là một phần c̣n lại của thành phố. Như vậy nên coi được là ba thành phố, cái này nằm trong cái nọ, phần cao nhất bảo vệ phần thứ hai, phần thứ hai bảo vệ phần thứ ba. Trên chóp đỉnh, có một gian hàng đầy các loại thực phẩm.

Chúng tôi tới được thành phố Noringabal, chiều dài chiều rộng bằng như nhau, phải mất bốn giờ mới đi qua trọn thành phố. Thành phố chắc lớn hơn thành phố Paris.

Tôi không thể bỏ qua không ghi lại nơi đây cái sắp đặt chu đáo và kỷ luật quân đội của vị tướng Mông Cổ: chúng tôi cắm lều một đêm nọ giữa năm ngàn kỵ binh mà chúng tôi không hề bị nghe một tiếng chửi rủa nào v́ chúng tôi là kẻ ngoại lai, chúng tôi cũng không phải lo lắng một tư nào, cũng không hề bị mất đồ đạc hay bị mất giấc ngủ đêm khi nằm an toàn giữa đám xe ḅ kéo. Khi ra khỏi thành phố, chúng tôi quên không tŕnh giấy thông hành cho lính gác, họ chạy theo chúng tôi, nghi ngờ là chúng tôi làm t́nh báo; nhưng sau khi đă xem giấy tờ của chúng tôi, họ đối với chúng tôi theo phép lịch sự và vui ḷng nhận một chút quà mọn của chúng tôi.

Chúng tôi đến Deder, nhưng thành phố này rất quan trọng và là một ch́a khóa của biên giới xứ Mông Cổ, nên chúng tôi không thể vào đó được. Thành phố nằm trên một nơi cao, tường đẹp và cao, bao phủ mọi nóc nhà. Khắp các góc trên tường thành đều đặt súng ống và các khẩu đại bác to lớn một cách khác thường. Giữa các thành phố mà chúng tôi đă nh́n ngắm th́ thành phố này chúng tôi thấy có vẻ đặc biệt hơn cả. Ở đây, chúng tôi phải trả cái thuế thường t́nh cho mỗi chiếc xe ḅ. Chúng tôi vào xứ của nhà vua Golconde và một lúc sau đó, vào kinh đô cũng mang cùng một tên như vậy.

Xứ này rất tự do cho người ngoại quốc. Do đó, chúng tôi buộc phải bỏ những người vũ trang mà người ta đă khuyên chúng tôi lấy tại Surate để bảo vệ cuộc hành tŕnh. Chúng tôi đă trả tiền tại Golconde à 7 quan tiền «livre» và 10 xu, để có giấy thông hành, để có phép vào và ra thành phố.

Thành phố Golconde là một trong những thành phố đẹp nhất và xây dựng chu đáo nhất của Ấn Độ. Lớn như thành phố Rouen (tại Pháp), nhưng ở nơi có không khí trong lành hơn, các đường xá thẳng thắn và rộng răi, nhà cửa th́ gần giống như nhau cả. Giữa thành phố có cung điện hoàng gia, nơi nhốt kín các bà hoàng hậu như các nộ lệ danh giá. Nhà vua là tín đồ Mahomed. Các bà không bao giờ được ra khỏi nơi đó. Hoàng cung rất cao, có tới ba tầng lầu. Các bà chỉ có một cái tự do duy nhất là được nh́n ngắm con đường lớn thành phố và những ǵ qua lại trên con đường đó mà thôi.

Phía trên cây cầu, người ta nh́n thấy cung điện nơi nhà vua ở, trên một nơi đất cao. Cung điện trông rất huy hoàng. Người ta quả quyết là h́nh vẽ, then cài và các song cửa đều bằng vàng khối cả. Điều này có thể tin được v́ nhà vua nắm trong xứ một mỏ kim cương, từ đó mà lấy ra của cải tương đương như của cải những bậc hoàng thân vĩ đại nhất.

Cái mỏ kim cương nói trên nằm cách Golconde ba hay bốn ngày đường, tại một nơi khô cần, giữa đám núi non hiểm trở. Để t́m thấy kim cương, người ta lấy loại đất đặc biệt (là loại đất - theo như người ta tin - tạo nên kim cương), màu đỏ lợt, có gây trắng, đầy đá sỏi và đất cục thật cứng. Người ta dọn đều một chỗ đất bằng phẳng gần nơi người ta muốn khai mỏ. Rồi người ta đem loại đất lấy được trong mỏ ra, rải đều ra nhẹ nhàng, để cho khô dưới nắng suốt hai ngày. Khi đất đă tạm khô, người ta giă ra thành bột, rồi sàng đất mà t́m kim cương, nhận diện ra những hạt sỏi nào đă được thiên nhiên đính ngọc. Nhà vua cho mướn những mỏ trên với giá là sáu trăm ngàn quan ê-cu, và giữ trọn quyền các hạt kim cương quá 6 ca-ra. Nhà vua có các binh sĩ để trông coi không để kẻ khai mỏ lường lẫy. Có những hạt kim cương đến 35 và 40 ca-ra. Đó là cả một kho tàng to lớn của nhà vua.

Chúng tôi (phải) quan sát nơi này hầu chỉ dẫn cho các khách du hành: về vụ đổi vàng tại Golconde, người ta có thể lợi được 12 xu cho mỗi quan tiền «pistolle». Người ta có thể lời hơn nữa với quan tiền ê-cu vàng, tiền «lys» của Pháp và tiền cổ «sequin» của Venise.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 7

Tiếp theo cuộc hành tŕnh của chúng tôi tới Massulpatan

 

Ngày 6 tháng Ba, chúng tôi đến Massulpatan. Thành phố này là một hải cảng nằm bên bờ biển Coromandel, ở độ thứ 16. Chúng tôi đă phải lên một cây cầu gỗ, dài có đến một dặm, được quản tŕ kỹ lưỡng: từ khoảng này tới khoảng nọ, có những bậc thang để đi xuống phía dưới. Không có cây cầu này th́ chẳng thể nào tới Massulpatan được, v́ khi thủy triều lên, nước biển bao trùm hết một phần lớn cái xứ ao đầm nơi thành phố này.

Một trong các người hầu của chúng tôi đi trước chúng tôi để t́m thuê một căn nhà. Hắn đến gặp ông y sĩ giải phẫu người Pháp đang phục vụ trong Hăng hải thương Ḥa Lan. Ông này sai tên đầy tớ người Ḥa Lan ra tiếp chúng tôi ở cửa thành; bởi thế, người ta cho chúng tôi là người Ḥa Lan và chúng tôi tránh được trấn thuế vụ: người Anh và người Ḥa Lan không hề phải đóng thuế hàng hóa họ đưa qua, nhờ các điều kiện khác đă thỏa thuận với nhà vua xứ Golconde.

Người ta không thể không gặp thấy người Pháp trong thành phố này. Thành phố này là hải cảng chính của xứ Golconde. Tuy nhiên không phải là cảng thuận lợi nhất, v́, nói ngay ra, không hề có cảng, chỉ có một băi biển hay một cái bến nơi tàu bè đến thả neo, cách thành phố bốn giờ đi đường. Lại nữa, người ta không thể chất hàng được nếu không ra từ sáng sớm, nhờ gió mát từ lục địa thổi ra và thủy triều lên cao. Và cũng không thể ngăn được sự thể, dù gió có nhẹ nhàng và biển chỉ hơi động, là các con tàu đă chất hàng nặng sẽ bị chạm đáy cát và người ta không sao tránh khỏi bị đắm, nếu chỗ ấy có vài tảng đá ngầm. Vùng chung quanh thành phố là vùng śnh lầy, tường thành th́ chẳng có giá trị ǵ, trong thành th́ đầy dăy những căn nhà nhỏ bé dồn ép và chồng chất cái này lên cái nọ, đường xá th́ lại nhỏ hẹp khúc khuỷ, trừ ra những khu người Mahomed giầu có với những căn nhà xây lớn và vài con đường rất quang đăng.

Đây là một thành phố đông dân và thịnh vượng nhờ các lái buôn từ khắp nơi đổ đến. Người Anh và người Ḥa Lan lập ở đây những cửa hàng hay thương điếm to lớn. Người ngoại quốc thích ứng khó khăn với khí hậu nơi đây và gần như phải trả giá mọi thứ phiền hà: người ta bị một chứng khó chịu hay thổ ra máu, gây ra v́ nước độc uống phải.

Thực ra, người ta t́m được tại đây một thứ nước uống khác coi được như một thứ rượu trái cây, đó là loại rượu thơm li-cơ mà dân địa phương lấy ra từ một số cây lá không phải là chà là. Người ta chặt một cành gần thân cây hoặc rạch một đường vào vỏ cây, từ đó chảy ra một thứ nước li-cơ màu trắng lợt và làm thành bọt tựa như bọt bia vậy. Để hứng được chất nước ấy, họ đặt một cái b́nh bằng đất ở đầu cành cây hay ở chỗ đă rạch ra, rồi mỗi sáng họ đến lấy đem bán ngay v́ không thể giữ quá một ngày mà không bị hư hoặc hóa giấm. Cứ thế, họ bán rất rẻ, họ gọi chất li-cơ ấy là «tari» hay «sur», và dùng để làm dậy bột thay v́ men bên chúng ta. Họ c̣n có một thứ nước uống khác do tự một thứ cây lá khác mang trái gọi là «cok» hay «coko», mà người Bồ Đào Nha gọi là «lagnas» khi cây c̣n tươi và mềm. Chính trong những trái «coco» này mà người ta t́m được một thứ nước trắng, ngọt (1). Nhưng phải làm quen với tất cả những thứ li-cơ ấy. Tôi nghĩ là cho sức khỏe, những thứ ấy dù tốt nhất vẫn không bằng nước sông Sein.

Khí hậu ở đấy nóng bức khủng khiếp trong ṿng 4 tháng trong năm, và mất khoảng 10 hay 15 ngày, nóng không thể chịu nổi. Bởi v́ không khí bị hun đốt do sức mặt trời đến độ người ta chỉ tạm đặt được bàn tay trên vách tường làm bằng một mảnh ván thường. Tường th́ bị mặt trời dọi nắng và bị nóng cháy bên trong nhà cũng như bên ngoài nhà. Gió nóng lại thêm vào cái nóng, v́ gió thổi hơi nóng thêm. Người ta chẳng c̣n cách nào khác để sống thời gian ấy hơn là núp trong nhà, che quần áo, xối nước không ngơi khắp phía mà làm mát tường nhà và không khí. Cái khó chịu này chỉ kéo dài vài hôm, khoảng 8 giờ mỗi ngày, trước và sau giờ ngọ. Thời nóng ấy vào tháng Năm: xem đấy coi Thiên Chúa đă muốn dân buôn phải trả giá mắc mỏ những phú quư họ t́m nơi xứ người, đă muốn họ chiến đấu nghiệt ngă v́ lợi nhuận bằng những thứ nghiệt ngă khác. Thấy ra rất dễ rằng ở những nơi mà dân Âu Châu tha thiết chuyện thương mại th́ lại là những nơi khí hậu khó chịu nhất, như Bassora, Comoron, Ormus, Mascati, Massulpatan, vân vân.

Xứ không hiền cũng chẳng ph́ nhiêu, đất đai chỉ được hai hay ba mùa hạt giống mỗi năm. V́ dân chúng địa phương vui chịu với rất ít thứ, hoặc về nhà cửa, hoặc về áo quần, hoặc về lương thực, nên họ có đầy dẫy cái để sống lại rẻ nữa. Bởi vậy họ sinh lười biếng, tin tưởng vào ḷng tốt và tính sinh hoa kết quả của mặt đất, ít chịu khó lượm lặt. Từ chỗ đó, khi gặp thời mất mùa v́ trời không mưa, những người cha người mẹ hay phải buộc bụng đem bán con ḿnh để t́m của sống. Thường họ đâu t́m bán con cho người bản xứ được, nhưng chỉ cho người ngoại quốc. Những người này đem gạo hay lúa ḿ vào bờ biển mà đổi lấy nô lệ, giá rẻ mạt nên họ hay t́m được trẻ con với giá một hoặc hai quan tiền ê-cu.

Ở thành phố này, người ta có gợi ư cho chúng tôi về một chuyện, mà về chuyện ấy tôi có ngay một ư kiến khác: nhiều người khuyên chúng tôi đưa tiền cho một số dân buôn đi từ Massulpatan sang Tenasserim, bảo đảm rằng họ sẽ trả cho chúng tôi 35% tiền lời và rằng họ sẽ trả tiền cho chúng tôi cả vốn lẫn lời ngay khi chúng tôi tới Tenasserim. Tôi không xét xem chuyện này ở đây có thể thực hành hợp với lương tâm hay không, v́ đó là thói quen địa phương. Tôi chỉ cảnh cáo rằng người ta chơi tṛ quá may rủi sợ không được cả cái cơ bản lẫn cái lời lớn, người ta nịnh nọt những kẻ mới đến để gạt gẫm họ. Bởi v́ đến Tenasserim rồi, chúng tôi mới biết những đồng bọn của các lái buôn phúc hậu ấy đă hứa lời lăi kếch xù, đều nghèo nàn quá đỗi, mặc dù người ta đă khua chuông gơ mơ rao cái đáng tin cậy cho họ. Chúng tôi hiểu là (nếu cho họ mượn tiền) chắc chắn sẽ phải trở ngược lại Massulpatan mà chạy theo sau đồng tiền đă bỏ ra. Vậy chớ để bị quyến rũ v́ lời hứa hẹn lời lăi kếch xù. Ngoài ra, luôn luôn là thứ khó coi cho một người thợ Phúc Âm thu lợi nhuận đưa lại, trừ ra qua những cách thức đă được phép, và không những thế, mà lại c̣n phải ở ngoài cả những cách có thể bị nghi ngờ rằng được hay không được trong sạch và phù hợp với sự thánh thiện của đấng bậc.

Suốt thời ở Massulpatan, chúng tôi ḍ hỏi kỹ lưỡng về t́nh trạng tôn giáo tại xứ Pegu, để lỡ khi chúng tôi đi sang Trung Hoa không được (2). Chúng tôi học được nơi những kẻ đă cư trú tại Ava, kinh đô của xứ Pegu rằng nhà vua xứ ấy, dù theo Ngụy giáo, lại cho phép giữ đạo thánh của chúng ta, rằng các thầy tu và dân chúng nơi đó thích nghe giảng về mầu nhiệm đức tin thánh của chúng ta, rằng việc c̣n lại là sai gửi đến đó những ai chỉ đi t́m ích lợi Thiên Chúa và phần rỗi kẻ khác.

C̣n về đường đi từ xứ Pegu sang xứ Trung Hoa, chỉ mất 20 ngày đi bộ. Vào thời chúng tôi ở Massulpatan, con đường này không được xử dụng, v́ vua xứ Pegu cấm ngặt, không muốn ai lai văng để giữ bí mật đối với xứ người Hung Nô mà nhà vua vốn sợ hăi: quân Hung Nô đă xâm lăng Trung Hoa, sợ sẽ sang chinh phục các xứ bên cạnh. Đó là lư do mà những năm sau này các thừa sai và hành khách không được xử dụng đường ấy là đường dễ dàng từ Masulpatan và từ khắp các hải cảng nằm trên bờ biển Coromandel đến tận các tỉnh phía tây Trung Hoa. Nhưng lệnh cấm này chỉ là để pḥng ngừa, nên có vẻ sẽ không kéo dài, chứng thực là tại Ava có một số đông gia đ́nh người Trung Hoa cư ngụ, đă từ Trung Hoa sang Pegu bằng đường bộ.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 8

Xuống tàu tại Masulpatan đi Tenasserim

 

Chúng tôi lưu lại Masulpatan 20 ngày: nhiều người Công giáo đạo hạnh, trong đó có các cha Ephrem và Zenon ḍng Phanxicô Capuxanh ngụ tại Madraspatan là trấn thuộc người Anh quốc, đă mời chúng tôi đến thăm nhà họ. Họ quả quyết là chúng tôi nên rời ngày xuống tàu vào tháng Tám sắp tới, là mùa dễ chịu hơn và đi biển bớt nguy hiểm hơn. Tuy nhiên v́ ḷng ao ước muốn đến được nơi sứ vụ thừa sai của chúng tôi, chúng tôi không cho phép ḿnh rời cuộc hành tŕnh lại. Chúng tôi bỏ cảng Masulpatan ngày 26 tháng Ba, trên con tàu của người More.

Tàu đi b́nh thản, không gặp giông băo, chúng tôi chỉ khó chịu v́ gió lặng buồn bă, nhất là khi mặt trời lên tới trên đỉnh đầu (1).

Vượt biển mất 33 ngày, đến ngày 28 tháng Tư th́ chúng tôi tới cảng Meriguy, cách Tenasserim 15 dặm.

Qua nhiều điều đă nhận thấy, chúng tôi phải tạ ơn Chúa v́ cái hạnh phúc trong cuộc vượt biển của chúng tôi: bố trí rất thô sơ, con tàu chúng tôi không thể nào chống trả nổi một cơn băo hơi lớn. Hoa tiêu là một người Bồ Đào Nha, khá lanh lợi, nhưng cứ nhất định không chịu nghe ai, sợ lộ ra cái kém cỏi của ḿnh. Và để có một hoa tiêu phụ, anh chàng chọn một tên dốt nát nhất - chàng ta thú nhận với chúng tôi như thế - ngại rằng thay v́ có được một ông bạn phụ tá th́ lại trúng ngay một ông thầy. (Mặt khác), các con tàu người More đều trang bị rất thô sơ. Hơn nữa, khúc biển mà chúng tôi đi qua lại là chỗ rất nhiều băo tố, và đă có nhiều tàu bè bị đắm nơi đấy rồi.

Chàng hoa tiêu lái tàu quá kém nên dù thuận thời tiết, chúng tôi cứ tưởng là đă bỏ ḿnh giữa quần đảo tử thần Andamans rồi (2): quần đảo này vốn nổi tiếng đáng sợ trong vùng biển ấy, v́ cái hung bạo của đám người man rợ sống trên đó. Khi chúng tôi đang sắp trôi xuống phía cực nam, th́ một hành khách đă quen xứ này mới nhận ra được (dù đi trong đêm) cái hiểm nghèo của chúng tôi. Tên hoa tiêu hoảng sợ lên, và ḍ đáy biển xong, anh chàng phải nhận là chúng tôi cách đất liền không xa. Bởi thế, trở đầu lại tức khắc, tàu đă qua được ngay chính giữa quần đảo trên. Làm như thế th́ cũng như là đem chúng tôi nghiền nát trên đất liền rồi. Bởi v́ các dân trên đó dữ tợn đến độ chúng giết chết và tàn sát không thương xót các kẻ lạ mặt đặt chân lên quần đảo của chúng, hay bị băo đưa vào đó. Chúng sẽ tức khắc biến kẻ bị tàn sát thành món ăn ngon lành của chúng.

Có một con tàu, rời cảng Masulpatan cùng lúc với chúng tôi, đă phải chịu cảnh man rợ của đám người nói trên. Thiếu nước và lầm đường, con tàu quyết định đi t́m nước trên một trong các ḥn đảo ấy. Người ta cho 37 người mạnh dạn nhất, trong số ấy có vài người Bồ Đào Nha, xuống một chiếc xà lúp: họ vừa chạm chân lên đất liền th́ một đám quân man rợ đă xông vào họ. Trước tiên, bọn chúng đập chiếc xà lúp tan thành mảnh vụn, rồi sau đó bắn tên tấn công đám người này. Mặc dù dân đi tàu là dân được trang bị vũ khí rất đầy đủ, nhưng tất cả đều bị tàn sát ngay tại chỗ, bị chiên lên, bị nướng lửa, thỏa cơn điên cuồng lũ man rợ đó. Chỉ duy nhất có một người thoát được vào rừng, chờ đêm xuống lẻn ra bơi về tàu. Con tàu không t́m được nước, buộc ḷng đă phải quay trở lại Massultapan theo chiều gió, dù gần cảng Meriguy hơn, nơi mà họ đă tưởng là sắp đến được.

Một vài chiếc tàu Hoà Lan muốn biết rơ quần đảo này cũng không được tiếp đón khá hơn. Bởi v́ khi họ vừa thả neo gần quần đảo th́ đă sửng sốt thấy ḿnh bị bao vây mọi phía bởi hằng hà sa số những chiếc thuyền con chở đầy dân mang cung mang nỏ, phóng tên không ngớt trên họ, khiến họ phải trở lui ra.

Quần đảo Andamans gồm rất nhiều ḥn đảo hợp lại, trải dài từ phía nam lên phía trung, từ vĩ tuyến 11 tới vĩ tuyến 13. Tại các vùng biển này, chỉ có các dân ở đảo là mọi rợ, hung ác; c̣n các dân khác sống trên đất liền như dân Xiêm La, dân Băng Gan th́ hiền lành và xử sự được, họ đón tiếp người nước ngoài và buôn bán tự do với họ.

Phần c̣n lại, về bốn con tàu rời Massulpatan cùng lúc với con tàu chúng tôi là chiếc duy nhất thoát khỏi mọi tai nạn, c̣n các chiếc khác đều bị lắm thứ phiền hà khác.

Trong suốt cuộc hải hành, chúng tôi không phải chịu cực cho thân xác ḿnh là bao. Tuy nhiên, chúng tôi cũng bị vài hạt nước mưa. Và v́ trời có lúc nắng như thiêu như đốt, chúng tôi phải chịu những cơn nóng khủng khiếp. Điều khiến chúng tôi phải khổ tâm và đau ḷng như cắt là phải nh́n tận mắt cảnh dị đoan của những lương dân, của người More và của những người khác bày ra để cầu gió thuận. Thấy ḿnh khó ở v́ trời lặng gió, họ chạy kêu cầu các thần thánh của họ: trước tiên, họ chế ra những con thuyền nhỏ xíu quăng hai bộ rưỡi, cũng có giây dợ, buồm, cột, rồi họ để đầy thức ăn vào, đoạn thả xuống biển. Họ vừa trông theo vừa cầu khấn ầm ỹ cho tới khi trông c̣n nh́n thấy được nữa.

Chuyện đó không chưa đủ, họ c̣n cầu cứu đến ma thuật (3): họ dán đầy khắp ḿnh một thứ tiền giấy, rồi làm thành đám rước, trong đó có đủ mặt các thuyền viên, đi theo thứ tự, tay cầm gậy đập nhịp nhàng. Một ông già đạo mạo theo đám rước tới xông hương các cột buồm trong khi tất cả đều đứng lại trong hàng ngũ, thưa đáp kinh ông già xướng bằng một thứ bài hát rất khó nghe. Họ vào tất cả các pḥng trên tàu. Chúng tôi cản không cho họ vào pḥng chúng tôi, trấn an họ rằng chúng tôi cầu xin Thiên Chúa của chúng tôi, trong pḥng riêng ḿnh, là Chúa Cả trời đất, Ngài sắp đặt mọi sự theo thượng trí khôn ngoan của Ngài. Thánh Phanxicô Xaviê cũng đă từng gặp cảnh đau ḷng tương tự. Chúng tôi cố gắng dâng hiến tấm ḷng ḿnh cho Chúa hằng sống vĩnh cửu. Đối với chúng tôi là cả một nỗi đau đớn khôn tả khi nh́n từng đấy cảnh nhục mạ mà không sao ngăn cản được, nghe thâu đêm và gần như mỗi giờ đồng hồ tiếng lệnh của một tín đồ Mahomed truyền cho đoàn thuyền viên kêu cầu Đấng Tiên Tri bất hạnh của họ (4).

Tuy vậy, phải kiên nhẫn, v́ chúng tôi không thể không sợ rằng cái tinh thần xấu xa nào đó ám vào đám dân này khiến họ lại nghĩ trong đầu họ rằng chính chúng tôi đă ngăn gió lại và làm chậm trễ chuyến đi. Như thế là đủ cho họ nổi điên lên mà đem thiêu sống chúng tôi rồi.

Thiên Chúa do ḷng nhân từ của Ngài đă kéo chúng tôi thoát khỏi những hiểm nghèo ấy.

Ngay lúc tới Meriguy, các quan thuế vụ đóng ở đó v́ quyền lợi nhà vua xứ Xiêm La đă đến thăm tàu chúng tôi và lập biên bản người và hành lư trên đó. Rồi họ gửi một bản các thứ họ t́m thấy cho quan toàn quyền và các quan binh tại Tenasserim là những kẻ ban lệnh xuống theo như ư họ xét: hoặc là con tàu được lên đến tận Tennasserim, hoặc là phải cho hành lư và người xuống các con thuyền nhỏ. Phải luôn luôn có phép ban xuống, không bao giờ cho ai được đi lại trên lănh thổ của vua Xiêm La mà không có giấy thông hành của quan toàn quyền và các quan binh của nơi ḿnh đến.

Cái chậm chạp của những dân xứ này thật là đến cực độ, con tàu của chúng tôi chỉ có thể đến Tenasserim vào ngày 19 tháng Năm mà thôi. Ngay ngày hôm đó, chúng tôi đến thẳng chỗ cha Gioan Cardoza ḍng Tên, người xứ Bồ Đào Nha. Về chuyện này, cha đă có ḷng gửi sẵn chiếc thuyền nhỏ của cha đi đón chúng tôi.

Ngày hôm sau nữa th́ chúng tôi được giấy phép đi lấy mớ đồ đạc nhầu nát của chúng tôi về, sau khi đă được quan toàn quyền và các quan binh khám xét khá sơ xài. Họ chỉ chú ư đến mấy cỗ tràng hạt bằng sừng sơn đỏ mà họ tưởng là bằng xà cừ. Họ đóng thuế là 8%, theo loại chứ không theo giá trị như chỗ khác vẫn làm. Họ chẳng lục lọi ai, chẳng lấy tiền bạc của ai, và cũng chẳng khó khăn ǵ cho hành khách nào muốn dấu diếm một vài thứ đồ quư giá đem từ Âu Châu sang để làm quà cáp trong nhiều cảnh ngộ. Những thứ đồ quư giá ấy là mấy cái đồng hồ, mấy bức họa nhỏ, những tác phẩm toán học, những cỗ tràng hạt bằng hổ phách và bằng xà cừ, những thứ ấy dùng để tạo uy tín cho người Âu Châu.

Phí tổn đi từ Masultapan đến Tenasserim cho lộ phí, cho đồ đạc, không lớn lắm, v́ cho 5 người chúng tôi là chỉ khoảng 42 đồng.

Chúng tôi ở lại nhà cha Cardoze hai hôm. Cha phải lo cả hai nhà thờ cho tới khi nào có người mới sẽ được sai tới, thay vào chỗ của một cha trước lo nhà thờ đó song mới qua đời hồi tháng Giêng vừa qua. Chúng tôi đă sang ngụ tại nhà cha quá cố đó và ở đấy suốt thời kỳ chúng tôi lưu lại tại Tenasserim.

Bởi v́ không thể đừng và cũng không thể xét đoán cách nào khác để giữ kín chức phẩm của đức cha Beryte (5), ngài phải nhậm lời kêu xin của vị tu sĩ tốt lành ấy và các Kitô hữu do cha chăm sóc tới ban Phép Thêm Sức hai ngày thứ Tư và thứ Bảy, tuần Bốn mùa Hiện Xuống. Tuy nhiên, chúng tôi lại nóng ḷng đi tiếp đoạn đường. Chúng tôi đă phải gắng sức ḿnh mới có được giấy thông hành mà chúng tôi nhận được hơi khó khăn và phải chi ra 10 quan ê-cu để dễ dàng việc chuyển gửi.

Vào lúc đó chúng tôi mới hiểu rơ ra được cái mạo hiểm của những con tàu biển mà tôi đă nói đến: con tàu thứ nhất chở các chỉ thị và thư tín của các cha ḍng Tên gửi cho các khu vực nơi đây đă bị đắm; người ta nghĩ là một con tàu khác cũng chịu đồng số phận v́ đi đă lâu ngày mà không thấy tin tức chi cả; con tàu thứ ba bị băo tố đầy đọa đă rơi vào cảnh khốn cùng; con tàu chở chúng tôi th́ được thoát khỏi mọi tai ương.

Trong thời gian ngắn ngủi lưu tại Tenasserim, chúng tôi t́m hiểu các phương thức sẽ phải xử dụng để đem đức tin vào các khu vực này: chỉ thiếu một số thợ đầy đủ mà thôi.

Toàn thể cái xứ Tenasserim này đều theo Lương giáo và Ngụy giáo, hoàn toàn mù mịt mọi điều về Thiên Chúa và về phần rỗi đời đời. Chúng tôi có đi lại thăm một vài thầy cả chủ chốt của họ mà họ gọi «Talapoin» (6). Nhờ một người thông dịch, chúng tôi đàm đạo với một thầy về những điều thuộc tín ngưỡng của thầy. Chúng tôi thấy nơi ông thầy này đầy những sự u mê, mâu thuẫn và vô lư; về mỗi điều cắt nghĩa của thầy đưa ra, chúng tôi chẳng t́m được cái lư nào khác hơn là cái lư rằng điều ấy đă được ghi trong kinh điển của họ như thế. Phần c̣n lại, thầy lắng tai thích thú nghe những điều chúng tôi cắt nghĩa về cái cao vời của Đấng Tạo Hóa, Chủ Tể muôn sự vật, về cái thánh thiện của Kitô giáo, về ngày thế mạt và về sự sống mai hậu cùng các phương tiện đạt đến.

Thầy ấy cho chúng tôi hiểu là thầy có ḷng tán thưởng các Kitô hữu và thầy nghĩ là Kitô giáo là tốt, song không v́ đó mà thầy lại kết án cái tôn giáo của thầy (7). Thầy cho chúng tôi hiểu là ở cái xứ này, người ta công nhận sự thánh thiện của Kitô giáo và đó là lư do duy nhất để người xưng đạo được hoàn toàn tự do (8).

Thực vậy, tự do không thể c̣n lớn hơn được nữa: nơi đây, người ta nghe những tiếng chuông nhà thờ, thấy các giáo đường mở rộng cửa, hát xướng thờ phượng, giảng dạy công khai, không một điều ngăn cản. Đó là điều làm cho chúng tôi an tâm tin rằng chúng ta có thể chăm lo mảnh đất này và biến nó thành Kitô giáo bằng cách sai gửi đến những người thợ xứng đáng. Về chuyện ấy, có thể người ta lại càng thấy phấn chấn hơn khi mà người ngoại quốc rất được tiếp đón trong xứ này và đường đi - đường bộ hay đường biển - không có ǵ là khó khăn cả.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 9

Hành tŕnh từ Tenasserim đến Xiêm La

 

Ngày 30 tháng Sáu, chúng tôi khởi hành đi tới kinh đô xứ Xiêm La, mà tên địa phương gọi là Ioudia, c̣n chúng tôi th́ gọi là Xiêm La (1).

Chúng tôi theo ḍng sông trên ba con thuyền nhỏ có mái che bằng tàu lá, mỗi thuyền có ba người đàn ông điều khiển. Những chiếc thuyền như thế thường thường chỉ là một mảnh duy nhất, đẽo ra từ một thân cây lớn mà người ta dùng lửa để khoét thành ḷng thuyền, dài có đến 20 bộ. Đó là những con thuyền đặc biệt cho những ḍng sông này: vừa nhanh lại vừa dễ nhẩy sóng. Bởi lẽ đó, v́ phải lănh đủ các cơn xô dập tṛng trành, chúng sẽ bị vỡ tan ngay nếu được làm bằng nhiều mảnh ván ghép lại. Bên Pháp thiếu loại cây to lớn như thế nên khó mà bắt chước được cái nghề chế tạo thuyền bè ở đây, tiện lợi v́ không cầu kỳ.

Chúng tôi đưa cho mỗi thuyền là khoảng 12 quan tiền ê-cu: phải sửa soạn cái ăn, cái ngủ ngay trên thuyền, v́ là chuyện quá liều lĩnh nếu xuống khỏi thuyền mà dừng chân trên bờ: rừng rú khắp nơi, đầy những sư tử, lợi ḷi, cọp cùng các thú ăn thịt khác. Chúng tôi ngược ḍng sông thực cực khổ v́ nước chẩy xiết và thác đổ đây đó. Những lúc như thế th́ các tay lái đ̣ lại phải dầm ḿnh dưới nước mà ra sức đẩy thuyền đi tới: người th́ dùng giây kéo, người th́ dùng sào chống, người th́ dùng vai gần như vác thuyền lên, v́ khó mà ngăn ḍng nước chẩy cực mạnh qua các kẽ đá, y hệt như người ta ngăn nước để tạo sức mạnh chạy các cối xay lúa bên ḿnh vậy.

Chính v́ lẽ đó mà đă xẩy ra chuyện đắm thuyền chở đức cha Beryte và một trong các giáo sĩ của ngài cùng với những ḥm đồ đạc quan trọng của chúng tôi: các tay lái không chịu nổi sức phũ phàng của ḍng nước, đă để mặc con thuyền trôi theo triều sóng. Con thuyền trôi dạt, đập tan vào một thân cây lớn ngă đổ trên ḍng sông. Phép Chúa ban cho đức cha Beryte gặp được thân cây ấy mà tự cứu mạng ḿnh: ngài ngồi lên thân cây như ngồi trên lưng ngựa vậy, được cái thú mà nh́n con thuyền ḿnh ch́m tan vào vực thẳm cùng với mọi thứ ở trong. Tuy nhiên v́ thân cây đó rất lớn, cành lá xum xuê rủ xuống mặt nước, nên phần lớn những đồ đạc mắc lại được ở đấy. Người ta kéo lại được những thứ quan trọng, nhất là một cái giương trong đó để nhiều giấy tờ hệ trọng. Đức cha Beryte và người giáo sĩ phải ngồi ở trên thân cây khá lâu, chịu sóng đánh tứ bề. Nhưng Chúa lại muốn ban thêm ơn xuống: một con thuyền xuôi ngàn qua đó, đức cha ra hiệu và thuê họ đưa ngài tới Jalinga, một nơi chỉ cách đó có 3 dặm.

Đối với chúng tôi, cái vụ đắm thuyền trên là một dấu chứng tỏ tường về sự che chở của Thiên Chúa. Bởi chưng nếu chẳng gặp được cái thân cây ấy, đức cha Beryte vốn chẳng hề biết bơi lội đă mất biệt tích rồi. Không đường cứu chữa.

Giữa các thứ mà chúng tôi không vớt lại được, có các giấy thông hành của chúng tôi. Do đó, người giáo sĩ đi theo đức cha Beryte phải trở ngược về Tenasserim để lo làm gửi giấy tờ mới lại (2).

Sau cùng, tất cả chúng tôi đều ở tại Jalinga là một ngôi làng nằm giữa một thung lũng nhỏ ph́ nhiêu, dễ chịu. Chúng tôi thuê ở đó một căn nhà lá, quá đủ để trú những trận mưa liên tục và để thu xếp lại mọi thứ sau vụ đắm thuyền. Các món đồ quư báu của chúng tôi bị hư hỏng. Chúng tôi có ư kiến là phải để mọi thứ muốn mang theo trong những ḥm cứng cát, đóng thật chặt ḥng c̣n chống nổi lại nước và phải để giấy tờ quan trọng trong các hộp bằng kim loại, v́ khó mà tránh khỏi chuyện bị đắm thuyền, khi đi theo những con đường hay bị lụt lội hoặc có thác gập gềnh.

Vào những ngày đó, một chuyện bất hoà đă xảy ra giữa người thông ngôn, các tên phu xe của chúng tôi với đám phu xe xay rượu trong làng. Đức cha Beryte v́ muốn giải hoà bọn chúng mà đă phải bị một trong những tên xay rượu ấy đập cho ba gậy. Và cũng vào lúc đó, đức cha bắt đầu tỏ rơ ra rằng ngài là thừa sai, bởi v́ là một điều phúc đức khi ngài phải chịu sự hy sinh nào đó để chu toàn nghĩa vụ ơn gọi của ngài (3).

Chúng tôi rời Jalinga vào ngày 27 tháng Bảy, ba ngày sau th́ tới làng Menam, nơi phải tŕnh giấy thông hành do Tenasserim cấp cũng như giấy của quan toàn quyền Jalinga cấp. Khi không phải là lái buôn th́ người ta không phải chi ra cái ǵ cả. Chúng tôi gặp những khó khăn mới trên đường bộ và lại c̣n bất ngờ hơn cả những khó khăn mà chúng tôi đă gặp trên đường sông nữa.

Chúng tôi gần như luôn luôn phải cuốc bộ: những chiếc xe ḅ mà chúng tôi đă sửa soạn cho chuyến hành tŕnh th́ thực là gây phiền toái hơn là trợ lực cho khách đường. Chúng trở nên như các xe chở đám táng hơn là xe kéo chở hàng, bởi v́ các loại «máy móc» ấy chỗ rộng răi nhất th́ mới được quăng 3 bộ, và chỗ hẹp th́ chưa tới mức đó. Cứ phải đóng hộp cả trong ấy. Xe nằm trên một cái trục xuyên ngang hai bánh xe lớn. Hai bánh xe th́ thường luôn bị bẻ cong quẹo v́ đường lồi lơm. Chiếc xe được kéo đi, chẳng c̣n nhờ ṿng bánh xe lớn nữa, mà là nhờ vào trục giữa bánh xe (4). Cái «máy» ác nghiệt đó luôn luôn bị găy thứ này găy thứ nọ đến nỗi chúng tôi thà cuốc bộ qua śnh lầy và suối thác c̣n hơn.

Đêm về, những chiếc xe kéo lại làm quán trọ cho chúng tôi. Thường xuyên, chúng tôi cắm lều giữa chốn nước lầy: người đời có thể chẳng tin nổi vào cuộc «chiến tranh tàn khốc» mà chúng tôi phải chịu do bọn muỗi ṃng gây ra đâu. Ở cái vùng đất nóng nực mà ẩm thấp này, bọn chúng cứ kéo qua kéo lại hằng hà vô số. Chúng tôi bị tấn công liên hồi và không sao ngờ trước được. Bọn chúng lúc nào cũng hút được máu chúng tôi. Cái tổ chức xếp đặt của chúng tôi chẳng có thể nào đủ mà đảm bảo cho chúng tôi được b́nh yên hoàn toàn.

Chúng tôi c̣n phải khổ phải sở v́ bọn thú dữ nữa: ngày th́ chúng gây kinh hồn khiếp vía, đêm th́ chúng lại gây trận gây giặc ra. Để tự bảo vệ lấy, đêm nào chúng tôi cũng phải xây thành đắp đồn, cứ lấy các xe ḅ kéo ra mà quân ṿng tṛn hay ṿng tam giác, rồi để ḅ kéo và hành lư vào giữa đó. Thường th́ chúng tôi c̣n phải kiên thủ thêm thành lũy bằng vài hàng rào gai nữa. Chúng tôi chẳng muốn phải nghe tiếng thú dữ lượn ṿng quanh chúng tôi: sư tử, lợn ḷi, tê giác và nhất là bọn cọp độc ác. Các con cọp là bọn liều ḿnh gây chiến ác liệt với các con ḅ kéo xe đến nỗi đám ḅ đáng thương hại ấy cứ khiếp vía cả lên mỗi lần có cọp đến. Chúng tôi phải nổ súng và phải đốt lửa suốt đêm mà xua đuổi bọn chúng. Mỗi người trong chúng tôi phải thay phiên nhau mà canh gác. Tuy vậy, chúng tôi vẫn ngủ nghê say sưa trong những các «quan tài» nhỏ xíu đem theo ḿnh (5), chẳng cựa quậy được nhiều v́ không đủ chỗ. Dần dà rồi chúng tôi quen đi với những nhọc nhằn và những bất tiện là những thứ gắn liền theo công việc của chúng tôi.

Ban ngày, chúng tôi cũng chẳng thoát khỏi cái chiến tranh của muôn thú: rất thường gặp voi ở xứ Xiêm La này, chúng liên hồi làm chúng tôi phải náo động lên. Chẳng có thứ ǵ làm cho bọn thú này sợ hăi cả. Khi mà gặp chúng, ḿnh chẳng nên chống lại cũng đừng trốn chạy: cứ b́nh lặng hay đi xa xa đường ra một chút, làm như ḿnh kính nể cái con thú quư phái ấy vậy. Thường bọn chúng không để ư đến người ta, cứ theo đường mà đi, dùng ṿi mà bẻ găy các ngọn cây bên đường. Nếu có con nào đến thẳng trước bạn, th́ hăy dâng cho nó vật ǵ đó, như cái mũ, cái áo khoác hay một miếng vải nào đó. Nó sẽ dùng ṿi cuốn lấy rồi chơi với vật ấy, ra vẻ như hài ḷng về cái tôn kính mà người ta dành cho nó, nó sẽ bỏ đi. Nếu nó nổi giận lên th́ phương thuốc duy nhất là đừng bao giờ ngừng chân mà chạy quay quay sau lưng nó, về phía bên trái: theo tự nhiên, nó không quay đầu về phía bên ấy bao giờ, nhưng về phía bên phải. Thời gian mà nó quay ḿnh chậm chạm v́ nặng nề sẽ cho ḿnh đủ thú vị mà leo tuốt lên một thân cây thật cao nào đó, hay là nhảy ngay xuống một cái hố sâu, hoặc là leo lên một bờ dốc thẳng đứng nào đó. Bằng như mọi thứ ấy mà thiếu th́ phải luôn luôn đứng đằng sau đuôi nó, chạy quay theo nó, nó sẽ mệt và sẽ để bạn có cách mà thoát thân.

Xứ Xiêm La ngang dọc những sông ng̣i và suối rộng, mưa xuống làm tràn bờ, thường không c̣n t́m được đường đi qua, chẳng có cầu cũng chẳng có thuyền bè. Chúng tôi cực chẳng đă phải xuống mà bơi qua, hay là lội đi qua khúc sông cạn chưa ai biết đến mà cũng chẳng được ai hướng dẫn.

Ra khỏi làng Menam, chúng tôi phải bỏ ra mấy ngày trời để xuống một sườn núi dốc, dốc đến độ phải cột giây vào bánh xe ḅ (mà tŕ lại). Sau đó chúng tôi tới một xứ rất dễ chịu mà nếu đem so sánh với chỗ chúng tôi vừa đi khỏi th́ thực là một thế giới mới: không khí trong lành, đồng ruộng phẳng lỳ, chăm sóc chu đáo và mầu mỡ. Khí hậu đối với chúng tôi rất ôn ḥa. Trời nắng cháy đến độ để biết lúc nào là đúng ngọ, chúng tôi chỉ cần ngó cái bóng những chiếc mũ chúng tôi đội giọi đúng trên chân chúng tôi. Và dù mặt trời như lửa đốt trên đầu, chúng tôi vẫn không cảm thấy khó chịu chút nào, dù là đang đi bộ: có lẽ chúng tôi đang thích ứng với cái nóng miền nhiệt đới mà chúng tôi đă sống từ 9 tháng trời nay.

Sáu ngày sau, chúng tôi đến được Couir là một làng nhỏ vuông vức, hào lũy chung quanh bằng ván gỗ, có được đến 200 mái nhà. Ở đây người ta hỏi giấy thông hành của chúng tôi, nhưng không đ̣i chúng tôi tiền bạc chi cả. Cái tên thông ngôn đạo Mahomed của chúng tôi muốn lấy ḷng quan toàn quyền ở đó đă nói với ông ta rằng chúng tôi là người Kitô giáo và là linh mục nên chúng tôi sẽ ban cho những ǵ người ta xin chúng tôi. Quan đă xin chúng tôi 3 đồng quan «teel», trị giá là 22,10 đồng quan «livre». Chúng tôi đă không cho phép ḿnh bỏ nơi đó ra đi mà không cho đồng quan nào và chúng tôi không hề bị ai theo nài.

Hai ngày sau chúng tôi tới Pram. Lại phải tŕnh thông hành nữa. Thành phố này cũng có vài việc buôn bán nhờ con sông lớn và nằm gần biển.

Từ Pram, đi 5 ngày đường th́ chúng tôi tới Pipili hôm 30 tháng Tám. Thành phố này lớn, tường lũy xây bằng gạch. Chúng tôi gần như luôn phải đi trong nước, các xe ḅ trôi đi hơn là lăn bánh. Chúng tôi hay phải liều ḿnh lội sâu đến ngang lưng ở những chỗ do mưa làm lở ra. Mưa tại những khu vực này mang một sức mạnh tuyệt vời để ngấm vào đất, tưới đẫm cho đất và làm cho đất thành mầu mỡ. Ngay khi chúng tôi tới Pipili, sau khi lo việc trú ngụ, cái lo lắng đầu tiên của chúng tôi là dựng lên một bàn thờ để làm lễ Đức Trinh Nữ Lên Trời (6). Chúng tôi hạnh phúc (được làm lễ đó) đến độ quên hẳn đi một cách nhẹ nhàng mọi thứ nhọc mệt và khổ tâm là những chuyện chỉ có tiếng (để gọi mà thôi); nhưng thực sự cũng là nhờ v́ đă nhọc mệt và khổ tâm nên niềm an ủi của chúng tôi càng lớn hơn .

Ngày hôm sau, chúng tôi xuống một con tàu, chủ tâm thuê 15 quan tiền ê-cu để đưa chúng tôi đến Xiêm La, kinh đô của xứ này. Chúng tôi đă đi bộ gần một ngày tṛn để ra đến biển; rồi sau khi đă đi trên đất liền quăng 24 giờ đồng hồ, chúng tôi tới cửa khẩu ḍng sông Xiêm La lớn và đẹp. Và chúng tôi cứ thế mà ngược ḍng cho đến ngày tới nơi là ngày 22 cùng trong tháng đó (7).

Trong lần đi ngắn ngủi này, chúng tôi không phải chịu cực nào khác hơn là cơn «bách hại» của mấy con muỗi nhỏ xíu mà chích rất đau. Mặt trời vừa chớm lặn là chúng đă xuất hiện rồi, và chỉ biến đi vào măi lúc bảy hoặc tám giờ sáng hôm sau. Suốt những giờ đó, không thể nào mà một người lại có thể nằm ngủ được, v́ c̣n liên tục phải lo tự vệ chống chiến tranh của những con vật tư hon đó mà chúng lại đông đến vô cùng vô tận.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 10

Kư sự đơn giản về xứ Xiêm La

 

Thời gian một năm trời mà chúng tôi buộc ḷng phải ở tại Xiêm La (1) đă cho chúng tôi có thời giờ mà học hỏi được những cái đặc thù của xứ này. Nhờ đó, chúng tôi diễn tả ra được chính xác hơn là các nơi khác mà chúng tôi chỉ có đi ngang qua mà thôi.

Vương quốc Xiêm La dài hơn 300 dặm, từ Bắc xuống Nam, nhưng hẹp hơn từ Đông sang Tây. Phía Bắc, giáp ranh với xứ Pegu; phía Tây với biển Gange (2), phía Nam với một xứ nhỏ gọi là Malaque. Trước tiên, xứ này bị tách khỏi quyền nhà vua Xiêm La do một trong những cận thần của nhà vua, nhưng cận thần này yếu kém không thể bảo vệ xứ ḿnh chống lại người Bồ Đào Nha. Bồ Đào Nha đă thống trị xứ này trên 60 năm. Ngày nay, người Ḥa Lan làm chủ pháo đài chủ yếu nhất tại đó mà họ đă chiếm được của người Bồ Đào Nha vào thời chiến tranh Bồ Đào Nha - Ḥa Lan. Về phía Đông, một phần là bờ biển, một phần là núi non phân cách Xiêm La với xứ Cam Bốt và Ai Lao.

Địa thế Xiêm La rất có lợi nhờ bờ biển rộng răi. Và nằm giữa hai vùng biển, Xiêm La mở ra một lối đi cho tất cả các xứ lân cận. Chiều ṿng bờ biển là 500 hoặc 600 dặm, người ta đến từ mọi phía: Nhật Bản, Trung Hoa, các đảo Phi Luật Tân, Chàm, Cam Bốt, các đảo Java, Sumatre, Golconde, Bengale và vùng bờ biển Coromandel. V́ lẽ đó, người Ḥa Lan có cửa hàng của họ tại đây, và người Anh cũng đă lập thương điếm tại đó vào năm 1662.

Vương quốc chia ra làm 11 tỉnh: Xiêm La, Martavan, Tenasserim, Jansalom, Keda, Pera, Jor, Paam, Patana, Ligor, Siara. Ngày xưa, những tỉnh này đều là các vương quốc, nhưng ngày nay nằm dưới quyền của vua Xiêm La. Nhà vua cử cho mỗi tỉnh các quan cai trị mà nhà vua phế thải như ư nhà vua thích.

Xiêm La là tỉnh chính và tên của tỉnh được đặt cho toàn xứ và cho kinh đô. Kinh đô nằm ở vĩ tuyến 14 rưỡi, bên ḍng sông tuyệt đẹp dẫn các tàu bè chở đầy hàng hóa đến tận cửa kinh đô, mặc dù kinh đô xa biển trên 60 dặm.

Tỉnh Martavan nằm ở Tây-Bắc tỉnh Xiêm La, thành phố chính ở đây cũng mang tên là Martavan, nằm ở độ thứ 16. Các tỉnh khác cũng mang tên thành phố chính trong tỉnh. Tenasserim theo bên Martavan, hường về phía Nam và Đông-Nam tỉnh Xiêm La, ở độ thứ 11.

Jansalom nằm dưới độ thứ 8, Keda thứ 6, Pera nằm ở cuối cùng giáp xứ Malaque, ở độ thứ 4, theo đó là tỉnh Jor mà thủ đô (thành phố chính) mang cùng một tên, ở độ thứ 2 và vài phút. Sau cùng, hướng về bờ biển và lên phía tỉnh Xiêm La, lần lượt là các tỉnh Paam, Patana, Ligor và Siara. Bốn tỉnh sau này c̣n có thể gọi được là vương quốc, nhất là v́ các quan cai trị không hoàn toàn lệ thuộc vào nhà vua Xiêm La, nhưng chỉ nộp triều cống mà thôi. Bởi đó, xứ Xiêm La thực sự chỉ chạy từ độ thứ 7 đến độ thứ 18, chỉ rộng có 275 dặm từ Nam đến Bắc mà thôi.

Toàn vương quốc được hưởng không khí khá trong lành, người ngoại quốc thích ứng khá dễ dàng và sức khỏe tạm được, mặc dù trời nóng nực vào một số mùa, nhưng cái nóng không tồi tệ như những nơi khác. Các vùng duyên hải khá đông dân chúng, nơi đây người ta thấy đầy dẫy làng mạc và thị thành mà vấn đề buôn bán tạo nên sầm uất.

Đất đai không những ph́ nhiêu mà lại c̣n được canh tác chu đáo, nhờ việc người dân bán được dễ dàng nông sản cho khách ngoại quốc đến mua tại nhiều nơi khác nhau. Nghề đánh cá, thức ăn chính của xứ này, phong phú một cách tuyệt vời. Cái giúp cho xứ sở được mầu mỡ là chuyện lụt lội của sông ng̣i do mưa tạo nên. Mưa suốt ba, bốn tháng trong năm, làm cho các cánh đồng khá bằng phẳng bị ngập nước khắp nơi. Đó là cái quy luật chung: lụt càng lớn, mùa màng càng đầy dẫy và sung túc cho dân Xiêm La. Họ chẳng kêu ca v́ hạn hán quá lớn bao giờ. Lúa gạo là thực phẩm chính của họ và là lúa ḿ của họ (3) th́ chẳng bao giờ được tưới cho đủ: lúa mọc ngay giữa nước và những cánh đồng họ canh tác lúa th́ tựa như ngọn thủy triều hơn là đất đai mà người ta làm lụng bằng cầy bừa. Lúa có cái sức mạnh này là mặc dù nước ngập đến 6 hay 7 bộ trên chúng, chúng vẫn ngoi lên trên được và cái nhánh lúa vượt lên theo mức độ mặt nước đang d́m đắm cánh đồng. Cũng chính v́ lư do ấy mà người ta không trồng lúa ḿ trong xứ này là loại cần đất khô và phải tưới ẩm.

Mặc dù đất đai toàn xứ Xiêm La ph́ nhiêu, nhưng có nhiều chỗ hoang vu và bỏ ngỏ v́ không có người: dân bị giảm rất nhiều v́ những cuộc chiến tranh trước đây. Ngoài ra, người Xiêm La vốn là kẻ thù của công việc, chỉ ưa những chuyện dễ dàng và để hoang nhiều cánh đồng thật đẹp mà chúng tôi đă đi qua. Những cánh đồng này có thể sản suất vô chừng và nuôi sống cả một dân tộc lớn nếu người ta biết đặt giá trị của chúng lên. Các b́nh nguyên bỏ trống ấy và các khu rừng dầy đặc mà người ta thấy trên núi non làm thành nơi trú ngụ cho voi, cọp, ḅ hoang, nai, mễnh, tê giác và các thú khác, từng đàn từng đàn.

Vốn giàu có của cải mà Đấng Tạo Hóa đă ban cho, vương quốc Xiêm La mời gọi các thương gia ngoại quốc đến viếng thăm để cho thấy nguồn phú túc của ḿnh. Thật ít gặp được thành phố nào trong toàn Phương Đông này mà người ta thấy lắm quốc gia khác nhau tụ họp lại như tại Xiêm La: ở đây, người ta nói hơn 20 thứ tiếng khác nhau.

Ở Xiêm La, người ta t́m thấy nhiều vàng, nhưng chất lượng thấp, nhiều bạc, đồng, ch́, thép, tiêu thạch (4), ngà voi rất đẹp mà thiên hạ buôn bán nhiều, da thú và da nai đă chuẩn bị kỹ lưỡng, cây chàm và cây «sapaon» cho thợ nhuộm (5) đầy khắp rừng. Người ta mua ở đây tiêu, cánh kiến hương, nhựa đặc (6), lúa gạo và vô số các loại trái cây thực ngon ngọt. Cái dồi dào của cải ấy thu hút việc buôn bán vào xứ của họ. Họ cũng chẳng thiếu những thứ sinh sản nơi khác mà do tàu bè bên ngoài đem lại, v́ người Xiêm La không phải là những tay thủy thủ tài ba: họ chẳng ra đến biển cả bao giờ.

Dân Xiêm La đón nhận cởi mở thương mại của kẻ láng giềng, và t́m được ngay tại xứ ḿnh những thứ cần thiết, nên họ không chịu khó làm thêm ǵ nữa: với họ, đó chỉ là thứ thừa thăi phiền toái. Họ chắc chắn là ṭ ṃ muốn có được lụa là đă làm sẵn kỹ càng để c̣n diện vào các ngày lễ lạy và các nghi thức.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 11

Trái cây xứ Xiêm La

 

Không có ǵ giúp ta hiểu biết cái tốt lành của một xứ sở hơn là cái phong phú, tinh tế và đầy dẫy của trái cây mọc ở nơi xứ ấy: do đó, tôi sẽ kể ra những trái cây mà tôi đă trông thấy và đă nếm thử tại xứ Xiêm La.

Tôi bắt đầu bằng loại trái mà được ưa thích nhất là trái sầu riêng (1). Trái này lớn và mang vẻ bên ngoài như một trái dưa tây quen thuộc, vỏ cứng và lởm chởm gai góc, sinh ra trên cao thân cây, dưới những cành lá. Loại trái này rất khó bổ ra v́ vỏ cứng khi đă chín, nhưng Thiên Nhiên (2) lại muốn chúng tự mở ra phía dưới qua 3 hay 4 chỗ, người ta sau cùng dùng sức ḿnh mà bẻ ra. Bên trong trái có những múi thịt mềm và dịu nằm thành thớ nhỏ, trắng như tuyết và ngon ngọt hơn tất cả những ǵ mà chúng ta cho là ngon nhất tại Âu Châu. Chẳng có loại trái nào của chúng ta gần giống được như vậy. Mỗi trái sầu riêng mang 5, 6, 7 và 8 múi màu trắng, mặt ngoài tựa như một trái hạnh nhân xanh, nhưng lớn hơn cả bốn hay năm lần. Cái đặc thù của loại trái tuyệt diệu này là cái mùi nó thật hết sức khó chịu và khi người ta ngửi đến, ban đầu, sẽ chịu không nổi, y như mùi một trái táo thối. Loại trái này cực kỳ nóng: các người Âu Châu ăn vào nhiều quá sẽ phải bỏ liều đi tắm rửa mà giảm nhiệt xuống.

Một loại trái cây khác cũng không kém được ưa chuộng là trái mít (3), to như trái bí rợ nên chúng chỉ mọc ra trên thân cây. Trong lớp vỏ là thịt màu vàng, rắn và vị vừa chua vừa ngọt rất dễ chịu. Thịt trái cây chứa một cái nhân to như ngón tay cái. Và khi người ta dùng dao bổ trái này th́ một chất sữa rất dính sẽ chẩy ra, mà người ta chỉ có thể rửa sạch con dao bằng dầu và đá. Người ta không ăn trái này nếu không được chuẩn bị sẵn. Khi ăn trái này nhiều quá người ta sẽ bị đi tả, và có thể hại cho sức khỏe nếu người ta không cẩn thận dừng lại. Về điều này, Thiên Nhiên luôn khôn ngoan thấy trước, ban cho thuốc chữa trị cái yếu điểm này lại nằm ngay trong cái trái đă gây nên: người ta dùng những hạt cây đă được rang chín lên, những hạt mà thịt trái cây bám vào. Chúng mang công hiệu phi thường. Một trái mít đôi lúc có đến một trăm múi nhỏ.

Trái măng cụt (4) to như một trái cam nhỏ loại thường. Vỏ bên ngoài th́ màu đỏ xậm, nhưng bên trong th́ lợt hơn. Vỏ nhẵn, mềm, ở trong có nước ngọt và thịt trái giống như cam nhưng ngon hơn rất nhiều. Cam Xiêm La tốt lành hơn cam mà chúng ta có bên Âu Châu, ngay cả cam mà chúng ta gọi là cam Bồ cũng không gần chúng được. Người ta ăn chúng như ăn táo tây, nhưng ít sợ là ăn nhiều sẽ bị phiền phức. Măng cụt có suốt 6 tháng trong năm.

Cũng có những trái sung (5), nhưng khác với loại sung Âu Châu. Trái này sẽ được thiên hạ ưa chuộng hơn, nếu như chúng đừng quá thường t́nh tại xứ Xiêm La này: ở đây, chúng đầy dẫy, đủ thứ loại đến nỗi như chẳng c̣n đáng ǵ. Chúng to nhỏ đủ cỡ, trái th́ to bằng nửa bàn tay, trái th́ to bằng cả bàn tay, chúng tṛn được ba «pouces» (6). Chúng cũng không kém phong phú về mùi vị, ngọt dịu như đường, mùi thơm rất dễ cảm. Tuy nhiên cũng có trái sung chẳng mang mùi thơm nào.

Cây mang trái này có cái đặc thù là nó không hề có cành nào khác hơn là những cái lá lớn nằm ở đầu cùng thân cây. Thường lá rộng cả một thước rưỡi (7). Lá mọc trên thân cây và dính vào thân nhờ một gân lá vững khỏe. Lá xanh và dầy, bởi thế dùng vào được nhiều chuyện như để gói mọi thứ đem ra chợ và thường để làm khăn phủ bàn và khăn ăn. Mỗi lá mọc khỏi thân là như một cành cây. Vài kẻ đă tin rằng ông A-dong đă dùng lá này để che thân. Cây này c̣n có một đặc tính đáng để ư khác là chúng chỉ cho trái một lần duy nhất; bởi thế hằng năm đều có mầm non mọc lên dưới gốc chúng để nối nghiệp. Cây non mọc lẹ làng nên chưa đầy một năm, chúng đă trở thành một cái cây trọn vẹn, sinh trái vô số và tuyệt hảo theo loại chúng. Bởi v́ như thế, cây đổi mới mỗi năm cũng như chết đi mỗi năm, Thiên Nhiên đă sắp sẵn trước cho cây nối nghiệp mọc lên trong ṿng một thời gian cực ngắn.

Tôi xin lưu tâm diễn tả ra nơi đây những kỳ diệu của cây dừa, v́ tôi không được biết đến các tác giả đă qua xứ Ấn Độ và đă lo lắng kể lại cẩn thận tất cả những đặc tính của loại cây này. Không hề có loại cây nào trong thiên nhiên mà lại có ích cho nhiều thứ và đem lại nhiều công dụng như loại cây này. Thân cây dùng cất nhà cửa, lá cây dùng lợp mái, vỏ cây dùng làm giây dợ, gáo dừa dùng làm ly uống và ly đựng rượu, nước dừa trắng và dễ chịu, thịt trái cứng và tươi ngon tựa như trái hồ đào (8) mà người ta ép được ra dầu ăn rất tốt, sau cùng lá đan được thành giỏ khá bền và tiện để chứa nước. Duy một ḿnh loại cây này thôi đă là một bản tóm lược những kỳ diệu và những tiện nghi cho đời sống con người.

Trái cau (9) là một loại trái lớn và vẻ ngoài giống như một trái mận lớn, vỏ mang nhiều sớ nhỏ, bên trong là nhân khá cứng tựa như nhân trái nhục đậu khấu (10). Vị trái này rất chát và hăng, nhưng lại bồi bổ bao tử. Người ta ḥa hợp trái này với lá cây trầu, cộng thêm với vôi làm từ vỏ ṣ nung ra, người ta nhai trong miệng, và môi hiện đỏ như son. Người Xiêm La và các dân ở những vùng này dùng cau gần như mỗi giờ. Họ xem cau như thứ tuyệt diệu cho sức khỏe, v́ nó giúp tiêu hóa, tăng cường nhiệt độ tự nhiên và chữa trị cái độ ẩm trong thức ăn họ thường dùng: cơm gạo lạnh và ẩm, cua cá , trái cây, nước trong dùng làm đồ uống. Người ta thấy kẻ giầu cũng như người nghèo, từ sáng cho tới tối, cứ bận bịu lo nhai loại trái cây này: khi họ gặp nhau, cử chỉ lịch sự đầu tiên là mời nhau loại trái cau này và rồi nhai với nhau.

Trái «manque» (11) là một trong các loại trái mà mùi vị ngon ngọt nhất tại xứ Xiêm La này. Trái này to như một trái lê (12), bên ngoài màu vàng và bên trong màu đỏ. Chúng ta chẳng có loại trái cây nào giống với loại trái cây này.

Tôi không nói ǵ về trái dứa là loại trái quá đỗi thường t́nh tại các nơi này. Tất cả các thứ trái cây ở đây đều rất nóng cho bao tử, nhưng bao tử lại cần được bồi dưỡng tại chốn này hơn ở những miền lạnh. Bởi thế Thiên Nhiên đă lo liệu trước bằng muôn vàn trái khác nhau, rất tuyệt hảo trong việc bồi bổ bao tử.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 12

 

Phong hóa và tập tục của dân Xiêm La

 

Các dân tại Xiêm La có thân thể cân đối, da xanh lạt (1) chứ không đen, dù họ sống dưới vùng nhiệt đới. Mũi họ ngắn hơi mũi người Âu Châu. Bản tính họ hiền lành, ḥa nhă ân cần với người ngoại quốc mà họ kính nể hơn là nghi kỵ mặc dầu đối với họ là người xa lạ.

Họ chuộng sự nghỉ ngơi, chỉ làm lụng khi cần thiết. Họ coi thường những kẻ làm lụng và chỉ coi như nô lệ của họ. Câu châm ngôn lớn nhất của họ là có ít với nghỉ ngơi (2): đối với họ, nghèo nàn mà an b́nh th́ khoan khoái hơn sung túc của cải mà lắm lo lắng. Người ta có thể nói được họ có cùng cảm nghĩ như những kẻ tuyên bố nơi Đấng Khôn Ngoan trong đoạn thứ bốn của sách Giáo Sĩ rằng: «Melior est pugillus cum requie, quàm plena utraque manus cum labore» (3).

Y phục, đồ đạc, nhà cửa và thức ăn của họ eo hẹp v́ cái nghèo này: họ luôn luôn đi chân không, đầu để trần. Những bậc vị vọng và người khá giả nhất th́ đi voi trên đất hay thuyền dưới nước. Thuyền của họ rất tiện lợi. Họ cũng che đầu với cây dù (cây ô) bằng vải sơn. Y phục của họ không có kiểu cách lắm, chỉ có một tấm vải mỏng manh trắng tinh, hay có h́nh hoa rực rỡ đủ màu sắc, mà họ dùng để che quấn thân thể, cũng giống như người quấn khăn trên đầu vậy. Họ chỉ che đôi vai bằng một áo choàng bằng vải nhẹ và mỏng từ trên xuống tới đầu gối, tay áo ngắn mà rộng. Họ chỉ mặc áo này ở trong thành phố. Đàn bà ăn mặc cũng gần giống như đàn ông. Họ cạo tóc và nhổ râu: họ rất cầu kỳ giữ ḿnh sạch sẽ, tắm gội thường xuyên trong nước thơm. Khi hội họp thờ phượng, họ trang điểm thêm tấm vải lụa thêu vàng và thêu bạc.

Nhà cửa thường dân rất tiện lợi cho việc xử dụng, rất dễ xây dựng v́ nhà chỉ làm bằng gỗ và lá. Tường nhà bằng các thân cây ghép lại với lá phủ, cửa sổ chỉ tạm gọi là có. Nhà đặt trên cột cao để tránh lụt lội mà hằng năm thường tràn ngập xứ sở. Người giầu th́ có nhà cửa kiên cố làm bằng gạch và lợp ngói.

Về đồ đạc của họ, chỉ là vài tấm thảm và vài cái gối nệm. Họ hoàn toàn không quen xử dụng ghế, bàn, giường, thảm phủ tường, văn pḥng làm việc, tranh treo tường. Nhưng họ càng nhiều đồ đạc, người ta lại càng đáng giá là giầu có. Trong nhà của họ khá sạch sẽ.

Thức ăn b́nh thường của họ là cơm gạo và trái cây mà đất nước cung cấp cho họ dư tràn. Họ chẳng hề thiếu gà vịt, ḅ bê, thịt thú rừng, thú săn được. Nhưng v́ họ tin là một điều ác khi cất mất sự sống của thú vật nên b́nh thường họ không hề ăn thịt thà (4): không phải v́ họ cho là có tội khi ăn thịt thú vật đă chết, nhưng là có tội khi giết chúng để ăn thịt. Nhưng trong xứ Xiêm La có khá nhiều người coi thường cái mê tín dị đoan này, hoặc là chẳng hề sợ hăi phải mang tội giết thú vật, do đó thịt thà bán khá nhiều: dân Xiêm La đâu có từ chối chuyện ăn thịt thú vật, cứ thế mà rút tỉa cái lợi nơi tội lỗi của anh em ḿnh.

Họ lại không quá đỗi cầu kỳ khi ăn tôm cá, nhất là v́ người ta không có cất mạng sống của chúng một cách tàn ác như đối với thú vật. (V́ khi giết thú vật), người ta giết chúng máu me lênh láng, chúng kêu rên thê thảm và người ta lại dùng một cây sắt đâm thọc vào tận ruột gan của chúng. Trái lại, bắt cá th́ dùng lưỡi câu và cá chết như tự ḿnh mà chết. Đó là lư luận của người Xiêm La.

Theo nguyên tắc, cá là món ăn quen thuộc của họ. Các món cá, họ có đầy dẫy và rất ngon, nhờ sông nhiều và rộng lớn tưới đẫm trong xứ sở.

Đồ uống của họ là nước trong. Tuy vậy họ cũng tạo ra rượu bằng gạo (5) mà họ để lên giấm trong nước với một thứ lá cây gọi là «nipre» là thứ rất mạnh và làm say y như rượu chát.

Suốt thời gian chúng tôi ở Xiêm La, sau các bữa ăn mà thường là cá, chúng tôi dùng trà. Người ta uống trà rất nóng với một chút đường. Chúng tôi thấy thật là ngon. Công hiệu của trà mà người ta dùng ở xứ này so sánh được với công hiệu của rượu vang: ở những xứ này, dạ dầy bị yếu đi v́ sức nóng và hao ṃn v́ phẩm chất (tồi tệ) của thức ăn: người ta có thể nghi ngờ một trong hai (nguyên nhân) trên (nguyên nhân nào là nguyên nhân chính). Cái thứ lá ấy (6) quá thường dùng trong những xứ ở đây mang đặc tính thượng hạng, nhất là đặc tính làm ḿnh lâng lâng tâm trí (7). Về điểm này, trà khác hẳn với những thứ rượu li-cơ khác mà người ta dùng, và khi dùng nhiều quá độ, người ta sẽ mất hay yếu lư trí đi. (Trái lại), trà sẽ bồi bổ và thanh giải lư trí khỏi những hơi khí (8) làm cản trở mọi chức năng của ḿnh (9).

V́ đời sống không mắc mỏ lắm tại xứ Xiêm La, v́ dân t́nh hiền lành và có khuynh hướng nhàn hạ và v́ được tự do rộng răi hoặc cho tôn giáo hoặc cho thương mại, rất đông người ngoại quốc đă tới đây: kẻ th́ làm nghề thủ công, kẻ th́ lo buôn bán, người khác nữa th́ t́m cái êm ả của đời sống. Nhân đó tôi nhận xét rằng nếu người Pháp chúng ta nghĩ tới chuyện thương mại, muốn xây dựng tại Xiêm La, th́ nên gửi đến nhiều thợ thủ công các nghề. Những người này sẽ tạo uy tín cho quốc gia và sẽ làm ăn được nhiều cho chính họ, miễn sao họ phải là những kẻ mực thước, đừng xấc xược.

Người Xiêm La không hề có việc thực tập nào để trở thành điêu luyện trong binh nghiệp, trong việc cưỡi ngựa và khiêu vũ (10). Họ không hề có môn học nào về triết lư, về y khoa, về toán học. Nền thần học của họ chỉ tựu trung vào vài bài ngụ ngôn; tất cả mọi kiến thức khoa học của họ là biết viết và biết các luật lệ của giới cầm quyền và sự công b́nh. Thay v́ có một y khoa hợp lư, họ có kinh nghiệm về các loại thuốc chữa khác nhau mà họ chữa trị khá hiệu nghiệm những bệnh hoạn thông thường. Họ sẵn sàng chạy đến cầu cứu ma thuật khi thuốc thang của họ hết hiệu nghiệm mà chẳng hề buồn t́m hiểu rằng ma thuật là ǵ: họ xử dụng đến ma tuư, tiền giả, h́nh ảnh và ngôn ngữ bí nhiệm. Họ cũng tỏ ra rất hiếu kỳ muốn biết tương lai, nhưng họ không tin dễ dàng những tay lừa đảo rêu rao rằng chúng nổi tiếng nghệ thuật tiên đoán tương lai.

Chữ viết của họ khá gần gũi với chữ viết chúng ta, hoặc về chữ viết hoặc về số chữ và cách viết từ trái sang phải. Họ chỉ viết với một cây bút ch́ trên giấy mỏng, giấy này cần được người ta dám thêm vào một hay hai tờ nữa để có thể ǵn giữ được. Một quyển sách lớn thường chỉ là một tờ giấy duy nhất dài hằng nhiều thước (11), được gấp xếp lại cũng gần như tấm b́nh phong trong pḥng của chúng ta vậy.

Toàn thể quốc gia là quân chủ và được cai trị một cách hoàn hảo. Nhà vua là tuyệt đối. Nếu nhà vua có hội họp các quan lại (12) để xử lư công chuyện th́ cũng là để tham khảo ư kiến của họ hay cho họ rơ ư muốn của ḿnh hầu họ đi thực hành. Về việc này, họ rất mau lẹ và trung tín.

Cái hay trong việc cai trị của họ chủ yếu là nằm ở chỗ hoà hợp giữa nhà vua và thần dân. Nhà vua truyền cho các quan trong hội đồng của nhà vua biết những ư muốn ḿnh; các quan này cho các quan dưới tỉnh biết; các quan tỉnh cho các quan tùy phụ khác biết; và các quan tùy phụ cho các quan nhỏ biết. Họ gọi các quan sau cùng này là «najas». Mỗi vị «najas» cũng giống như một thủ lănh được đề ra trên một số người nào đó, nhiều ít tùy theo đặc ân của vị «najas». Vị «najas» phải trả lời cho những người dưới quyền ḿnh, mà những người này phải giữ sự tôn kính đặc biệt đối với vị «najas». Guồng máy cai trị xem ra khá chỉnh đốn và thực hiện được việc áp dụng sức mạnh quân chủ: mỗi người giữ nghĩa vụ của ḿnh và không ǵ được làm với bạo lực. Những thủ lănh cấp dưới thiếu xót th́ sẽ được bù trừ hay sửa sai theo phán đoán của cấp trên.

Nói tắt một lời, sự lệ thuộc giữa người này người nọ được giữ chính xác, kẻ dưới vâng lời người trên như nô lệ. Vào một lúc nào đó, mỗi người phải phúc tŕnh lên quan lại cấp trên; rồi theo phẩm trật, mọi sự đều lên tới nhà vua. Có hai điều giúp nhiều nhất cho nền hành chánh của xứ được tốt đẹp: một là tất cả các quan lại đều có thể bị đào thải theo ư quân vương là người cất họ lên hay hạ họ xuống tùy theo sở thích của ḿnh. Điều này khiến cho mỗi vị quan phải lo làm tṛn bổn phận ḿnh. Hai là trong việc phân chia trách vụ, người ta cốt yếu là nh́n đến công trạng, việc làm và sự phục vụ đă thực hiện, chứ hoàn toàn không nh́n đến chuyện gia truyền con nối (13). Điều này khiến cho mỗi người phải chuyên tâm sao cho xứng đáng với ân huệ nhà vua tính theo công trạng cá nhân ḿnh.

Sự kính trọng mà họ phải có đối với nhà vua th́ rất lớn và vượt qua những giới hạn theo điều kiện của một thụ tạo phải giữ: họ tôn thờ nhà vua như thần thánh. Về điểm này, họ tỏ ra sự mù quáng của họ. Họ chỉ thưa tŕnh với nhà vua khi gối quỳ và tay đặt chéo trên đầu, dấu chỉ sự kính nể sâu xa nhất, và tất cả đều cúi mặt sát đất, không dám nh́n thẳng mặt nhà vua. Họ xem nhà vua của họ như vua các vua, chúa các chúa, chủ tể nước non, đấng toàn năng trên đất đai, đấng thống trị đại dương, đấng phán định cho hạnh phúc và vận rủi của thần dân. Đó là những cách nịnh hót của con người dành cho các bậc vị vọng, với những phẩm cách chỉ thuộc về Thiên Chúa.

Kitô giáo dạy những t́nh cảm khiêm tốn hơn và theo luật Chúa, phải tuân phục các bậc quân vương. Đạo cũng dạy các bậc quân vương phải kính sợ Thiên Chúa và nh́n nhận ḿnh là con người, được Ngài cất lên bậc quyền bính chỉ là để lo sự thiện cho thần dân là những kẻ vâng phục họ.

Điều góp thêm vào việc làm tăng sự kính trọng có tính cách tôn giáo mà người Xiêm La đối với quân vương của họ là việc nhà vua chỉ cho dân chúng gặp mặt một cách rất họa hiếm. Duy nhất vào ít ngày lễ lạy, với đủ thứ lộng lẫy hào nhoáng có thể. Nhà vua b́nh thường chỉ xuất hiện hai lần trong một năm, một lần trên đất và một lần trên sông. Toàn thể triều đ́nh rực rỡ theo hầu. Khi nhà vua ra ngoài đường, nhà vua ở trên lưng voi, (ngồi) trong một cái tháp sáng chói ngọc ngà, kẻ theo hầu có tới cả mười ngàn người. Nhưng nhà vua khi xuất hiện trên đường nước mới là thực là trang trọng lộng lẫy v́ một số rất đông chiến thuyền theo hầu cận. Có tới ba hoặc bốn trăm chiếc, mạ vàng trong ngoài. Mỗi chiếc có ba mươi hoặc bốn mươi người chèo. Một vài người trong họ có tay và vai mạ vàng. Những tay chèo này rẽ sóng với một tốc độ không thể nào tin nổi và hai bờ ḍng sông Xiêm La vang vọng thật xa những tiếng sóng động của các mái chèo.

Chiến thuyền chở nhà vua lộng lẫy vàng tinh ṛng, vàng mạ cho đến tận dưới nước, trên thuyền người ta đặt một chiếc ngai tuyệt đẹp. Nhà vua xuất hiện trong y phục cao sang và đội một vương niệm toàn bằng vàng, đính đầy những kim cương. Trên vương niệm, có hai cánh phủ xuống hai vai nhà vua. Các bậc lănh chúa và quan lại triều đ́nh theo nhà vua, mỗi người trong con thuyền của ḿnh, trang hoàng tương xứng theo quyền lực, phương tiện và nhiệm vụ của họ. Hai bên bờ tràn ngập dân chúng, họ chạy theo từng đàn từng lũ, hoan hỷ hô hào inh ỏi.

Nhà vua để xuất hiện không kém phần trang nghiêm, đă không quên đến viếng vài đền thờ nổi tiếng trong những ngày lễ, và dâng cúng những món tuyệt vời cho các thầy tế lo việc phụng tự.

Mục tiêu mà người ta đề ra và kết quả mà người ta đem lại qua các nghi lễ trên là giữ được dân chúng trong sự tôn thờ nhà vua. Điều chắc chắn là nhà vua cần làm cho những đôi mắt (người dân) mù quáng v́ cái hào nhoáng lộng lẫy bên ngoài để c̣n giữ được họ trong sự tôn kính và thần phục đối với nhà vua.

Tôi xin nói một lời về tiền: tại Xiêm La có nhiều bạc. Bạc của đồng tiền chính ở đây rất tinh ṛng và có một mặt khá tṛn mang dấu ấn nhà vua, gọi là «quan tiền Tical», trị giá 37 xu theo tiền nước Pháp. Có một đồng tiền khác nữa gọi là «quan tiền Mayon», trị giá bằng một nửa quan tiền Tical. Cũng c̣n có «quan tiền Fouant», trị giá bằng một nửa quan tiền Mayon. «Quan tiền Sampaya» th́ trị giá bằng một nửa quan tiền Fouant. Bạc của các đồng tiền này rất tinh ṛng.

Chúng tôi đă ghi chú rằng người ngoại quốc đến đây dễ dàng, khắp nơi trong xứ, hoặc là để định cư sinh sống theo luật lệ của người Xiêm La, hoặc là để buôn bán hay là để hành nghề họ đă quen. Tôi xin nói thêm rằng người ta không hề làm khó dễ ǵ đến họ, miễn là đừng làm chi chống lại quốc gia và quyền hành nhà vua. Để pḥng ngừa những chuyện lộn xộn mà người ngoại quốc có thể gây ra, người Xiêm La đă đặt định trước cho mỗi sắc dân ngoại hơi đáng kể (sống tại đây) một người cai trưởng thuộc sắc dân này. Ông ta phải lo cho mọi người thuộc xứ sở của ḿnh. Hơn nữa, nhà vua c̣n cắt đặt một vị chúa thuộc triều đ́nh hay trong đám quan lại làm người bảo vệ hay làm ông chủ riêng cho mỗi sắc dân. Chính trước vị chúa này mà người cai trưởng nói trên phải đến, hoặc là để biết ư kiến của nhà vua về những phúc tŕnh mà người cai trưởng đă tŕnh lên, hoặc là để rơ những quyền lợi nhà vua và công việc liên quan đến sắc dân của ḿnh.

Ngoài điều nói trên, v́ những kinh lạch con sông lớn đă chia kinh đô Xiêm La thành nhiều ḥn đảo, người ta cẩn thận sắp xếp và đặt để các sắc dân vào các ḥn đảo hay khu phố riêng biệt. Điều này giúp tránh được những xung đột thường hay xảy ra v́ nhiều sắc dân lẫn lộn và những đố kỵ tự nhiên với nhau.

Người ta c̣n bắt buộc những người ngoại quốc đă quen thuộc với xứ Xiêm La hằng năm, vào một ngày trọng thể nào đó, phải tuyên thệ trung thành với nhà vua. Nghi thức được giữ cẩn thận, tất cả các quan triều đ́nh và các người ngoại quốc phải đến tham dự. Nhà vua ngồi trên ngai chấp nhận lời tuyên thệ của mỗi người thực hiện theo phẩm trật. Sau đó, người ta cho họ uống một thứ nước gọi là nước tuyên thệ mà giữa họ, họ coi như là nước thánh, đă được các thầy tế ngụy giáo chuẩn bị sẵn cho việc này. Các thầy tế dúng đầu lưỡi kiếm vào nước này, đọc nhiều lời phù chú chống những lời thề gian xảo, tin rằng tất cả những ai không tuyên hứa trung tín với nhà vua với con tim chân thành sẽ bị chết ngay tức khắc và sẽ bị nước thánh ấy làm ngạt thở. Người ta có thể kết luận rằng hoặc là mọi người đều rất chân thành, hoặc là nước thánh ấy cũng ít công hiệu, v́ chưa từng thấy ai bị chết sau nghi lễ trên.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 13

Bàn về tôn giáo của xứ Xiêm La

 

Tôi không tin là có xứ nào trên địa cầu có lắm tôn giáo mà lại được phép thực hành hơn là tại xứ Xiêm La. Những lương dân, Kitô hữu và tín đồ Mahomed, chia ra nhiều giáo phái, tất cả đều được tự do theo việc thờ phượng mà ḿnh coi là tốt lành nhất. Người Bồ Đào Nha, Anh quốc, Ḥa Lan, Trung Hoa, Nhật bản, Peguans, Cam Bốt, Malaque, Đàng Ngoài, Chàm và nhiều dân khác phía miền nam đều có cơ sở tại Xiêm La.

Có tới gần 2.000 người Công Giáo, phần lớn là người Bồ Đào Nha, từ các nơi khác nhau tại vùng Ấn Độ Dương, bị xua đuổi nên đến cư ngụ tại Xiêm La, nơi mà họ lập thành từng khu riêng tạo nên ngoại ô thành phố. Họ có được 2 nhà thờ công cộng, một dưới sự điều khiển của các cha Ḍng Tên và một do các cha Ḍng Thánh Đa Minh cai quản. Họ cũng được tự do giữ đạo y như ở Goa: người ta làm việc thờ phượng, giảng dạy, rước kiệu Thánh Thể. Dân lương giáo không dám nói năng ǵ đến. Vào thời chúng tôi ở đó, có một tên nọ đă bị coi khinh: hắn nhạo cười người bên Kitô giáo trong lúc họ đang tham dự một nghi lễ phụng tự, rồi không thấy đám Kitô hữu ấy nói ǵ, hắn phá lên cười cợt. Một tay Bồ Đào Nha cảm thấy bị xúc phạm bèn xông tới đấm đá hắn. Hắn đem chuyện tên Bồ Đào Nha gây gỗ ấy lên khiếu nại trên triều đ́nh, muốn biến thành chuyện quốc sự, nghĩ ḿnh là thần dân nhà vua th́ người ta sẽ bênh vực hắn chống lại tên nước ngoài: hắn chẳng nhận được sự ǵ khác hơn ngoài bài học phải biết mà sống chớ c̣n bao giờ gây hấn rắc rối đến ai đi chăng nữa trong tôn giáo của họ.

Đôi khi tôi tự hỏi do đâu mà nhà vua Xiêm La lại quá dễ dàng cho phép trong xứ ḿnh và trong thành phố kinh đô ḿnh có từng đấy tôn giáo khác nhau như vậy. Bởi chưng, tôn chỉ nhận được từ những nhà chính trị lăo luyện nhất là chỉ cho phép một tôn giáo mà thôi, v́ e rằng tôn giáo sinh ra nhiều, cái khác biệt về niềm tin sẽ phân tán tinh thần người dân và tạo nên cơ hội cho những xáo trộn.

Người ta đă trả lời với tôi rằng có một tôn chỉ chính trị khác rằng ông hoàng phải xử dụng sức mạnh. (Thực vậy), nhà vua Xiêm La rút được mối lợi lớn nơi sự hiện diện của người ngoại quốc trong các vùng đất của nhà vua, hoặc trong việc họ làm (1), hoặc nhờ sự tiêu thụ hàng hoá của xứ sở, hoặc do hàng nhập từ bên ngoài vào. Nhà vua ban tự do cho tất cả mọi người và mời họ lập cư tại Xiêm La và tiếp tục việc thương mại ở đây. Thái độ này của nhà vua c̣n có một lư do khác nữa: theo ư kiến của dân chúng Xiêm La, mọi tôn giáo đều tốt. Chính v́ thế họ không hề tỏ ra chống đối một tôn giáo nào, miễn sao tôn giáo có thể hiện diện với luật lệ của chính quyền bản xứ.

Người Xiêm La nói rằng Trời như một Lâu Đài lớn và có nhiều con đường dẫn đến đó. Có những con đường ngắn hơn, có những con đường đông người hơn, có những con đường khó khăn hơn, nhưng tất cả sau cùng sẽ dẫn đến Lâu Đài hạnh phúc mà con người t́m kiếm. Sẽ là một chuyện tranh luận thật khó khăn khi muốn xác định con đường nào trong những con đường ấy là con đường hoàn hảo nhất. Hơn nữa, các tôn giáo th́ lại thật là nhiều, phải xét tất cả th́ thật là phiền hà, và người ta sẽ phải dùng hết cuộc đời ḿnh trước khi biết giải quyết chọn lựa. Và v́ tin có nhiều Thiên Chúa, họ lại thêm rằng các Thiên Chúa, tất cả đều cao trọng, đ̣i hỏi con người những sự thờ phượng khác nhau và muốn được thờ kính bằng nhiều cách thức khác nhau nữa.

Những người quan sát cẩn thận những cảm nghĩ của người Xiêm La về tôn giáo đă quả quyết rằng cái tính lănh đạm về điểm này là một trong những phương châm được đón tiếp nhiều nhất và được chứng nhận nhiều nhất giữa các thầy thông thái của họ (2). Cái hiền lành theo bản chất họ, việc lui tới và tiếp xúc thường xuyên của bao nhiêu là người ngoại quốc, vấn dề nhân nhượng chính trị mà họ buộc ḷng phải làm cho người ngoại quốc, tất cả đă đưa họ vào cái tư tưởng tai hại ấy: tuyệt vọng trong chuyện đi t́m chân lư, họ chẳng c̣n lo lắng chút nào về chuyện ấy nữa. Thái độ hờ hững lănh đạm ấy là một trong những cản trở lớn nhất cho việc trở lại của họ. Bởi v́ khi các nhà thông thái Kitô giáo đề nghị với họ đức tin thánh của chúng ta và cắt nghĩa cho họ những lư do làm chứng cho sự thật, họ không nói phản lại. Họ nhận là tôn giáo của các Kitô hữu là tốt. Họ chỉ cho là quá táo bạo liều lĩnh khi loại bỏ các tôn giáo khác, v́ các tôn giáo khác có mục đích tôn thờ các Thiên Chúa (3). Phải tin là họ vui nhận như thế. Đó là cách thức mà người Xiêm La lập luận. Đó là cái họ dùng để che đậy sự mù quáng của họ. Bởi chưng cái hờ hững lănh đạm nơi họ đối với tôn giáo (chúng ta) chỉ là do không hiểu biết về tính đồng nhất của Thiên Chúa (4), là Đấng không thể được tôn thờ bằng nhiều sự thờ phượng mâu thuẫn nhau và đối kháng nhau.

Lănh đạm, họ không học hỏi về bất kỳ điều ǵ. Do đó, thái độ lănh đạm này tạo nên nơi họ cái lạnh nhạt đối với ngay cả những điều mà họ tuyên xưng và họ tỏ ra không mấy xác tín về điều họ tin. Sự này dẫn tới chuyện họ không được tự nhiên khi tŕnh bày những điểm trong tôn giáo của họ. Ngay cả các thầy tế của họ cũng chỉ nói về tôn giáo của ḿnh với sự ngờ vực và muốn quư bạn t́m hiểu trong sách vở của họ hơn là dấn thân trả lời quư bạn.

Người Xiêm La là tín đồ Ngụy giáo. Họ có rất nhiều ngụy thần (5) và số ngụy thần muôn chừng của họ cũng chẳng kém lạ lùng so với h́nh hài vóc dạng của các ngụy thần này. Quư bạn sẽ thấy trên một bàn thờ có tới cả 50 hay 60 ngụy thần, cao có trên 40 bộ, làm bằng gạch, đá và mạ vàng bên ngoài. Trong các nhà những thầy tế, người ta thấy những dăy dài có đến 300, 400 ngụy thần đủ kích thước, h́nh dáng, tất cả đều mạ vàng, sáng chói.

Những đền thờ họ xây cho các thần này thật lộng lẫy. Người ta nói được là dân Xiêm La chỉ khéo léo và giỏi giang trong những công việc này: họ mực thước trong sự tiêu xài cho họ và trong những ǵ liên quan đến họ bao nhiêu th́ họ lại càng tỏ ra hào phóng đối với chùa chiền của họ bấy nhiêu. Các chùa chiền này rất vững chắc, cũng gần như những nhà thờ của chúng ta. Lối vào chính là những khuôn cửa thiếp vàng và sơn bên trong đền thờ, ánh sáng chỉ lọt vào được qua những khung cửa sổ hẹp và dài đặt trong những bức tường dầy. Bởi vậy, ánh sáng ban ngày chỉ mới chớm lọt vào được. Bên trong đền thờ, ở nơi xa cửa vào nhất, là bàn thờ. Người ta phải bước nhiều bậc đi lên như trong giảng đường mới tới được bàn thờ, trên đó họ đặt các ngụy thần. Bên cạnh đền thờ là các tăng viện của các thầy tế (6) là những người nói chung được cư ngụ khang trang nhất trong toàn xứ: họ có nhà ngủ và các căn pḥng của họ nơi họ sống chung. Họ cũng có những cấm viện giống như cấm viện của các tu sĩ bên chúng ta, chung quanh xếp đầy những bức tượng h́nh người. Ở giữa cung cấm có một cái tháp rất cao, sáng chói những vàng dán rất khéo vào gạch mà thời tiết không bao giờ làm lu mờ được. Theo tập tục, tro tàn của một vài vua chúa lớn được đặt dưới tháp này.

Dân thường và các thầy Talapoins hội họp nhau vào một vài ngày lễ trong những đền thờ để thờ cúng các ngụy thần của họ. V́ họ tin là một điều ác khi giết thú vật, họ không hiến tế những ǵ mang sự sống, nhưng họ chỉ dâng lên và cho các vị thần hoa quả của đất đai, cơm gạo và lụa là. Những đồ cúng này, sau khi để trước các vị thần một thời gian, sẽ dùng cho các thầy Talapoins. Thực là một điều đáng thương cảm khi nh́n những người dân bị lừa dối này thờ lạy cung kính trước những tảng đá ấy. Tôi ngạc nhiên khi nh́n thấy ḷng sùng kính bên ngoài và các cách tôn kính, chăm chú đạo đức nơi họ đối với các ngụy thần ấy.

Tôi biết rằng một vài người trong họ đă muốn thanh minh cái tội ác Ngụy thần giáo (7) khi nói là họ nh́n nhận và họ tôn thờ một Thiên Chúa, Chúa Cả muôn loài. Và nếu họ có những h́nh tượng th́ chỉ là để ǵn giữ h́nh ảnh và tưởng niệm những bậc vĩ nhân đă sống thánh thiện theo luật lệ tôn giáo của họ. Và khi nh́n đến h́nh ảnh cùng nhớ đến con người các bậc vĩ nhân ấy, họ thêm ḷng bắt chước các nhân đức của họ.

Chính là theo sự thực mà các thầy tu Xiêm La trả lời những người Kitô giáo đă tấn công họ về cái vô đạo trong Ngụy giáo của họ rằng họ cũng chẳng kém ǵ người Kitô giáo ở việc thờ ngụy thần khi họ làm ảnh tượng và đem ảnh tượng cho dân chúng tôn thờ.

Điều chắc chắn là câu trả lời trên mà họ mượn nơi người Kitô giáo không thể minh chứng cho họ được về việc tôn thờ ngụy thần. Bởi v́, trước hết, rơ ràng là những dân này rất mơ hồ trong niềm tin vào tính đồng nhất của một Thiên Chúa. Họ không có một sự thờ phượng nhất định nào đối với Hữu thể đầu tiên (8), kinh điển của họ không hề có ghi chú chính xác nào về điểm này. Hơn nữa, những tôn vinh thánh mà họ dâng cho các ngụy thần là nhắm tới chính các ngụy thần một cách tuyệt đối; tự chúng, những lời tôn vinh ấy không t́m tới một đối tượng nào khác hơn là chính những ngụy thần của họ. Khi họ cầu đến ngụy thần, họ khấn xin một cách tuyệt đối, chẳng hề có liên quan nào tới Thiên Chúa, xin những sự chỉ thuộc về thánh ư của Ngài, như cuộc sống, sức khỏe và sự thành tựu trong các công việc của họ. Và khi thực sự là họ tôn kính các bức tượng, không phải như đó là các ngụy thần, nhưng là như h́nh ảnh các vĩ nhân, họ cũng không thể được tha thứ v́ đă tôn vinh những kẻ chẳng hề nh́n nhận Thiên Chúa thật, Tạo Hóa duy nhất và Chúa muôn loài. Người Xiêm La v́ mù quáng do việc thờ phượng ngụy thần vẫn cứ tiếp tục chẳng biết dâng lên Thiên Chúa việc tôn thờ nào đặc biệt và rơ ràng.

Đó là những điều chúng tôi đă khá biết nhờ các người Kitô hữu thông ngôn của chúng tôi, qua những dịp mà chúng tôi đàm đạo với các thầy Talapoin. Tôi sẽ dẫn ra đây một ví dụ: đức cha Beryte khi ở Tenasserim đă đến thăm một trong các thầy tu chủ chốt tại nơi đó. Một người Bồ Đào Nha làm thông ngôn cho ngài. Sau khi chào thầy tu này theo lối bản xứ, để khỏi gây ngạc nhiên cho thầy, ngài đă hỏi thầy tựa như ngài muốn học hỏi đạo của thầy với thầy vậy. Người đàn ông này bắt đầu bài giảng thuyết mà nói với chúng tôi rằng phải đặt làm nguyên tắc rằng có 7 Thượng Đế, ngự trị trên Trời là đất ngọt ngào ban đầy khoái lạc và là nơi phải đến sau khi chết. Về phía ḿnh, đức cha Beryte tŕnh bày với thầy ấy những điều trong niềm tin của đức cha mà không ngừng bài bác những cái vô lư của thầy. Thầy ấy hài ḷng lắng nghe và sau cùng thú nhận là thầy tin rằng đạo Kitô là đạo rất tốt, rằng Chúa của người Kitô giáo và Chúa của họ là anh em với nhau, rằng Chúa của họ là anh cả và mạnh mẽ hơn người Chúa em: điều này đă thể hiện ra rơ trong sự khác biệt chung của hai Chúa anh và Chúa em, thầy tu ấy nói như thế. Cái khác biệt ấy đă buộc ḷng hai Chúa phải đấu chiến lẫn nhau và Chúa em đă bị thua, bị bắt và bị tử h́nh để phạt cái tội nổi loạn.

Đó là câu chuyện mơ mộng huyền ảo mà nhà thông đạo ấy đă kể cho chúng tôi nghe. Xem thế đă đủ để thấy những người dân này c̣n xa sự hiểu biết về một Thiên Chúa thật biết chừng nào.

Chúng tôi tin chắc chắn rằng cội rễ cái câu chuyện rất đỗi vô lư trên có thể là do họ đă nghe nói đến Thiên Chúa của người Kitô giáo đă bị đóng đinh trên thập tự và chết trên thập tự. Đó là điều họ không thể không biết tới; vả lại, họ c̣n thấy được trên bàn thờ chúng tôi h́nh tượng cây Thánh Giá nữa.

Đức cha Beryte nhân cơ hội này đă nói tới sự phục sinh và đưa ra cho thầy tu nói trên một lư luận phản chứng: thầy ấy ngạc nhiên không hiểu tại sao thầy có thể cùng một lúc vừa tin rằng đạo của các Kitô hữu là đạo tốt như thầy đă thú nhận, vừa tin rằng Thiên Chúa mà đạo Kitô tôn thờ đă chết. Thật khó để mà tin được rằng một tôn giáo là tốt khi tôn giáo ấy chẳng hề có một Thiên Chúa. Nếu Chúa của các Kitô hữu đă chết th́ Ngài không có nữa; nhưng nếu Ngài có đó th́ phải tin rằng Ngài đă phục sinh (9).

Cái phản luận trên được đưa ra như thế là để dẫn thầy tu ấy vào bài giảng về việc Nhập thể của Ngôi Lời Hằng sống và cho thầy hiểu rằng Thiên Chúa của người Kitô giáo chết và bất tử là theo hai bản tính phối hiệp trong ngôi vị thiêng liêng của Ngài. Cái phản luận trên đă làm cho thầy tu ấy bối rối đến nỗi thầy chỉ c̣n có thể rút lui bằng cách chấm dứt cuộc luận đàm trên và mời chúng tôi đọc những kinh điển bàn về tôn giáo của họ. Tuy vậy, thầy tu ấy lại là một trong những thầy nổi tiếng trong xứ. Thầy là bề trên của nhiều thầy Talapoin khác, trông coi một ngôi đền nổi tiếng. Người ta chỉ chúng tôi đến với thầy như đến với một nhân vật thông thái uyên thâm, là người có thể thỏa măn những câu hỏi của chúng tôi và giải quyết những nghi vấn của chúng tôi.

Chúng tôi c̣n ḍ hỏi mấy người khác nữa. Khi chúng tôi hỏi họ về số lượng các Thượng Đế, chẳng ai đă trả lời là chỉ có một; nhưng kẻ th́ nói là bảy, người th́ nói là chín, và kẻ khác th́ lại đưa ra một con số khác. Điều này chứng thực cho sự chúng tôi đă đề ra rằng người Xiêm La là dân ngụy tín, bởi chưng họ đem sự thờ phượng phải dành cho Thiên Chúa thật sang các ngụy thần của họ mà do tay họ làm ra và sang những con người hữu sinh hữu tử là công tŕnh của một Thiên Chúa cao cả và độc nhất phải được tôn vinh cung kính đến muôn đời.

Người Xiêm La rất kém vững vàng trong tôn giáo riêng của họ. Họ không có những cảm nghĩ lớn lao ǵ về cuộc sống đời sau. Không thể bảo rằng họ tin vào linh hồn bất tử, v́ họ không hề chắc chắn về điều này. Họ cũng chẳng cho là linh hồn sẽ kết thúc với thân xác; trái lại, theo ư họ là thân xác sẽ tồn tại. Chính v́ thế, ngay khi c̣n sống, họ đă lo dự trữ những đồ cần thiết cho đời sau: họ thu trữ tiền bạc, họ tiết kiệm những cái họ co thể và dấu kín ở một nơi xa vắng nào đó với tất cả bí mật có thể, đến độ chồng không nói với vợ, cha không nói với con, bạn hữu không nói với kẻ đáng tin cậy nhất. Người ta không thể nào nói được số tiền bạc mà cái tư tưởng trên đă khiến người ta đem cất dấu mỗi ngày. Có thể lên đến một con số khổng lồ. Và để ngăn ngừa người ta t́m kiếm ra, họ c̣n tăng cường thêm cho cái tư tưởng ban đầu bằng một tư tưởng khác không kém phần kệch cỡm rằng cái tội phạm thánh lớn nhất mà con người có thể vấp phạm là chuyện ăn trộm tiền bạc của người quá văng.

Tuy nhiên, họ có thể thoát ra được cơn mê hoặc của tư tưởng trên là cái tạo rắc rối cho họ trong cuộc đời này và chẳng giúp họ được ǵ sau cái chết, nếu họ quan sát những thời điểm mà họ đă đem chôn dấu dưới đất những món tiền dành cho các oan hồn đáng thương (10) xử dụng: họ sẽ thấy ngay rằng các oan hồn hoặc không hề cần đến những tiền bạc ấy, hoặc là đă quên khuất cái nơi chôn dấu những kho tàng trên, bởi chưng các oan hồn chẳng bao giờ trở về t́m kiếm.

Cái ư tưởng trên không chỉ nằm trong đầu người dân thường, cả những lănh chúa và quan quyền cũng chu đáo dự trữ cho tương lai, nhưng họ không đi chôn dấu kho tàng trong những nơi hoang vu, họ cho xây những ngọn tháp lớn và xinh đẹp, rồi chôn vùi dưới chân tháp tiền bạc để dành cho họ. Các thầy Talapoin lo canh chừng các ngọn tháp ấy, điều thật tiện lợi cho hồn các bậc vị vọng quá cố có được dấu hiệu và nơi chốn mà t́m lại dễ dàng cái chốn kho tàng của họ.

Qua đó, người ta thấy được rằng người Xiêm La tin có một cuộc sống sau khi chết. Nhưng họ lại nghĩ là phải cần đến tiền bạc để lo những sự cần trong điều kiện sống tương lai. Họ không nghĩ là linh hồn có tính thiêng liêng, và sau khi ĺa khỏi xác, không c̣n cần tới những thứ chỉ được dùng để nâng đỡ cuộc sống mà chúng ta có chung như mọi thú vật.

Các giới răn mà tôn giáo của người Xiêm La đă dạy về phong hóa, phù hợp với luật tự nhiên mà Thiên Chúa đă ghi khắc trong linh hồn con người để hướng dẫn hành động của con người. Những giới răn ấy tóm tắt lại hai điều gồm tóm những giới răn khác là tránh ác làm thiện. Về việc tuân giữ giới răn thứ nhất, người Xiêm La kinh tởm sự bất công, họ không phải là người hiểm độc tinh lanh, tàn ác hay giảo quyệt; về giới răn thứ hai, họ rất hăng hái thực hành, làm việc bác ái đối với mọi người, nhất là đối với người ngoại quốc, với kẻ qua đường, với thú vật và với người quá cố.

Sự thực, họ mê tín trong những ǵ liên quan đến thú vật, họ không hề bao giờ làm ác đối với chúng, không hề giết chúng, lo nuôi nấng chúng. Một vài người, trước khi họ dùng bữa ăn, luôn luôn lo dành sẵn phần cho thú vật mà họ dọn cho chúng trên mặt bàn đă chuẩn bị sạch sẽ, và chim chóc tự do đến đó mà ăn.

Các thầy Talapoin là các thầy tế của họ cảm nhận được ḷng bác ái của người ta hơn bất kỳ ai khác: mặc dù các thầy khó nghèo v́ lời khấn của ḿnh, các thần lại được chăm sóc hơn hết nhờ của dâng cúng dư đầy mà người ta ban cho mỗi ngày. Người ta ít khi cho các thần tiền bạc, song người ta rất rộng răi cho các thức nẩy sinh trong xứ sở đến nỗi các thầy c̣n dư lại để cho kẻ khác nữa. Chính tôi khi đi qua một ngôi nhà của các thầy Talapoin trên đường từ kinh đô Xiêm La tới Tenasserim (11) đă được hưởng biết ḷng bác ái của họ: họ cho tôi trú ngụ và cho tôi no thỏa những quà cáp thường t́nh của họ là cơm, trái cây và các đồ tươi khác. Để thu nhận những đồ dâng cúng, họ sai các thầy Talapoin trẻ đi khắp thành phố, khất thực từ cửa này sang cửa nọ. Vào những ngày lễ lạy th́ người dân có ḷng sốt sắng đích thân đem đến cho họ, nhất là khi dân đi hành hương.

Suốt thời kỳ có một trận lụt lội tràn ngập thành phố, chúng tôi đă phải rời xa kinh đô Xiêm La một dặm đường, lên một chỗ cao, nơi đó có một ngôi chùa nỏi tiếng. Chúng tôi sống bằng sự giúp đỡ của các người hành hương, họ đem tới nhiều quà cáp để tu bổ đền thờ, ngụy thần và các thầy Talapoin mà không bao giờ bị bỏ quên.

Giữa những thứ mà các dân hành hương tốt lành này sẽ c̣n gặp lại nơi đền thờ trên là h́nh tượng (12) một cây «bàn chân người ta» (13), to lớn dị thường, có tới 3 bộ chiều dài và 15 «pouce» chiều rộng. Họ nói rằng đó là h́nh tượng «cây bàn chân con người đầu tiên», (bàn chân ấy) được in lên một tảng đá được ǵn giữ trong đền thờ. Chỉ cần một cái giang chân ra thôi, con người đầu tiên đó đă đặt bàn chân kia lên một đỉnh núi cao nằm ở đảo Tích Lan (14).

Đừng ngạc nhiên v́ người Xiêm La có những ngôi chùa cao tới 40 bộ, v́ họ tin rằng có một con người đă có thể trong cùng một lúc đặt hai bàn chân ḿnh lên hai ngọn núi cách xa nhau cả hơn một ngàn dặm.

Chúng tôi thích thú nh́n tất cả những kẻ hành hương đạo đức ấy đem lễ vật đến trước cái cây «bàn chân con người đầu tiên» đó. Rồi sau khi được thánh hiến nhờ họ đă dâng cúng lên, những lễ vật này tức th́ được chuyển sang tay các thầy Talapoin để các thầy xử dụng.

Người Xiêm La c̣n thực hành việc bác ái đối với người chết. Họ ăn mặc rất trang trọng trong những buổi lễ an táng. Họ tiêu xài tốn kém nhiều nhất là cho các cuộc lễ an táng. Đôi khi họ bỏ ra cả một năm trọn để lo các thứ cần thiết và dọn dẹp những nơi thích hợp để tiếp đón tro tàn của kẻ quá cố mà họ có một nơi đặc biệt để lo việc tẩm liệm thi hài.

Mồ mả được bao bọc bằng nhiều cái tháp h́nh vuông, làm bằng gỗ trắc bá và được mặc thêm giấy cứng đủ màu sắc, lẫn lộn với lắm thứ đồ mă trông đẹp mắt. Họ dùng rất nhiều pháo bông phía trên những cái tháp vuông.

Khi mọi sự đă sắp sẵn, một nhóm các thầy Talapoin tham dự vào nghi thức đi tới nơi an táng, một nhóm khác đi lấy xác ở nơi để thi hài. Người ta đặt xác người quá cố trong một quan tài hay trong một cái ḥm mạ vàng, trên đó có một cái tháp trang hoàng bằng gỗ chạm trổ mạ vàng. Đôi lúc họ cũng làm quan tài theo những dạng khác nữa. Chúng tôi đă thấy cái quan tài của một thầy Talapoin nổi tiếng mà người ta đă giữ thi hài thầy suốt một năm trọn. Quan tài của thầy làm theo h́nh một con rồng thật vĩ đại đến nỗi một người đàn ông có thể chui vào miệng con rồng để mở hay đóng bộ máy ấy.

Khi xác đến nơi, người ta đem ra khỏi ḥm và đặt lên giàn hỏa táng và các thầy Talapoin đi chung quanh xác nhiều ṿng. Trong lúc xác bị lửa thiêu rụi, người ta cho chơi pháo bông và nhạc cụ.

Sau khi xác đă được hỏa táng, người ta cho tro tàn an nghỉ dưới chân tháp. Như vậy, người dân ở đây đă biết cất đi trong buổi lễ an táng những ǵ là bi ai sầu thảm. Bằng nguyên một bộ máy nghi thức kèm theo, lễ an táng sẽ kém phần tang chế mà nặng phần tŕnh diễn ngoạn mục hầu làm giảm bớt cái kinh khủng của sự chết và giảm sầu kẻ tham dự.

Trước khi kết thúc chương này, tôi xin thêm một vài nhận xét về các thầy tu của người Xiêm La, về các phong tục và sự khác biệt của các thầy này (15).

Người Bồ Đào Nha đă cho họ cái tên gọi là Talapoin. Họ chỉ mặc vải sơn màu vàng, y phục của họ cũng theo kiểu người dân thường; nhưng thay v́ áo khoác ngoài, họ đeo một khăn choàng bằng vải đỏ, từ trên vai trái quấn xuống ngang lưng bên cạnh sườn phải. Họ đi chân đất, để đầu trần, cầm trong tay một cái quạt lá mà họ dùng che đầu lúc trời nắng gắt.

Họ sống chung tất cả dưới sự hướng dẫn của một thầy tu trưởng. Thức ăn của họ khó nghèo và khắc khổ, họ chỉ ăn mỗi ngày một bữa, v́ ban chiều họ chỉ được phép ăn trái cây mà thôi. Mặc dù việc ăn chay trường rất khổ sở cho họ, nhưng được làm giảm dịu bớt nhờ họ ăn trầu cau mà chúng tôi đă diễn tả trước đây. Ăn trầu cau sẽ đem lại nhiều sức cho ai xử dụng.

Giữa các điểm giáo lư mà các thầy Talapoin thường hay dạy dỗ dân chúng nhiều nhất, là phải làm sự thiện cho các thầy Talapoin: đó là phương cách ngắn nhất và chắc chắn nhất để đạt tới niềm hạnh phúc ở đời sau. Thực vậy, đó là giới điều được xen vào giữa các giới điều khác của lề luật tôn giáo mà các thầy Talapoin lo cắt nghĩa. Dân chúng tin rằng tùy theo ḷng thành của họ đối với các ông thầy gian xảo này (16) mà họ sẽ được phần hạnh phúc nhiều hay ít ở bên kia thế giới. Do đó, người dân lo lắng làm mọi việc thiện mà họ có thể cho các thầy tùy theo gia sản của họ.

Các thầy tu này bị bó buộc phải giữ sự tiết dục (17) và tránh việc hôn nhân bao lâu họ c̣n mặc áo theo lời thệ nguyền của họ. Nhưng v́ họ được tự do cởi áo nhà tu, họ có thể lập gia đ́nh khi họ buồn chán đời sống vâng phục. Cởi áo màu vàng ra, họ được tự do khỏi mọi ràng buộc. Chính trong xứ này, chiếc áo làm nên thầy tu Talapoin.

Các thầy Talapoin cũng có những việc thực hành cộng đoàn: ngay khi trời vừa sáng và lúc chiều xuống, họ tập hợp lại theo tiếng chuông để cầu nguyện. Giữa buổi cầu nguyện và trong những lúc nghỉ ngơi, họ lập lại thường xuyên những giới điều quan trọng nhất trong lề luật: giới điều thứ nhất là không hề được sát sinh thú vật, giới điều thứ hai là phải làm sự thiện cho các thầy Talapoin hầu có được một ngày thấy việc thiện ḿnh tăng lên thêm nhiều mà bảo đảm cho đời sau.

Họ vốn cho rằng họ luôn luôn làm việc thiện, họ cũng tỏ ra là người công chính trong việc mà họ muốn kẻ khác thực thi. V́ thế, họ tiếp đón tất cả những ai t́m đến, họ có trước nhà của họ những căn pḥng mà trần h́nh ṿm, sạch sẽ ngăn nắp, để họ đón tiếp khách và để họ giới thiệu, một cách khiêm tốn và đạo đức, cho khách biết những ǵ thừa thăi nhất của họ.

Dân chúng b́nh thường hay ca ngợi những ǵ bề ngoài nên rất kính phục các thầy Talapoin. Họ coi các thầy như những đấng mà nhờ các đấng ấy, sau khi chết họ sẽ bảo đảm chiếm được những của cải lớn lao. Cái kính nể đối với các thầy tu này đă ngăn cản người dân nhận ra được những bừa băi thầm kín trong đám thầy tu này, kết quả đương nhiên của một cuộc sống nhàn rỗi của các thầy. Từ chỗ đó, các thầy tu này c̣n để những kẻ chất phát ấy trong cái thứ ngu dân thật lớn đến nỗi họ lẫn lộn tất cả các tôn giáo với nhau. Họ đi cầu khấn đủ nơi, khi th́ trong đền thờ Ngụy thần giáo khi th́ trong nhà thờ Kitô giáo.

Giữa các thầy Talapoin, kẻ th́ chỉ sống âm thầm, kẻ th́ giữ một vài nhiệm vụ liên quan đến xă hội, kẻ th́ lo đền thờ và các buổi lễ lạy. Những thầy sau cùng này được gọi là các thầy «Sancrat» là giới quư phái nhất trong tất cả, họ ở dưới sự quản trị của một thầy «Sancrat» là một nhân vật rất được kính nể. Chính thầy này ở tại ngôi chùa của nhà vua, nằm cách kinh đô Xiêm La hai dặm đường. V́ điều đó, thầy rất được nhà vua vị nể đến độ thầy được vinh dự ngồi cạnh nhà vua khi nhà vua nói chuyện với thầy và thầy chỉ phải chào nhà vua bằng một cái cúi đầu tồi tệ. Đó là đặc ân cho chức bậc cao cả của thầy, trong khi tất cả các vị lănh chúa lớn nhất của quốc gia chỉ hầu chuyện nhà vua với gối quỳ và mặt cúi sát đất.

Người Xiêm La, thầy tu Talapoin hay dân thường, không nhiệt thành nhiều với tôn giáo của họ là một thứ mê tín đă ăn rễ sâu mà họ đă quen ngay từ lúc mới sinh ra. Mặc dầu thế, theo một nghĩa nào đó, người ta không thể phủ nhận rằng họ gắn bó rất mạnh vào tôn giáo của họ, nên rất khó ḷng làm cho họ từ bỏ tôn giáo của họ mà theo một tôn giáo tốt lành hơn được. Như tôi đă nói, không phải là họ quư chuộng tha thiết cái việc thờ tự của họ, hay là họ cho rằng việc thờ tự của họ thánh thiện hơn, bảo đảm hơn việc thờ tự mà người khác đề ra đâu. Nhưng từ muôn thuở, họ vẫn xác tín rằng một việc thờ tự này có thể tốt lành hơn việc thờ tự khác, nhưng không v́ vậy mà người ta bị bó buộc phải chấp nhận theo. Họ đặt phương châm, như tôi đă nói, là nhiều tôn giao dù có khác nhau và đối nghịch nhau có thể đều tốt lành như nhau. Nếu họ có cho một vài ưu điểm lên tôn giáo của họ, th́ chủ yếu là do tính khiêm tốn nơi tôn giáo của họ là không phán xét, không phải kết án và không phải loại bỏ những tôn giáo khác. Nếu họ có sự oán ghét đối với Kitô giáo th́ chủ yếu là v́ lư do Kitô giáo đặt nguyên tắc này, mặc dù rất vững vàng, là: bởi v́ chỉ có một Thiên Chúa, nên chỉ có thể có một tôn giáo duy nhất là chân thật.

Những ai giao tiếp với người Xiêm La để lôi cuốn họ vào đức tin của chúng ta th́ phải giữ cách sống của ḿnh. Chớ có hành động theo đường tranh biện với họ, chớ có tấn công trực tiếp những ư kiến của họ, nhưng thích ứng với họ và chỉ đề nghị với họ những lợi ích của Kitô giáo trên các giáo phái mà họ đă quen thuộc. Người ta giúp họ hiểu cái tuyệt hảo mà Kitô giáo đề nghị ra, hiểu cái thánh thiện của các lề luật Kitô giáo, những việc kỳ diệu đi theo việc rao truyền Kitô giáo trong thiên hạ và tất cả các chứng cớ tỏ tường cho những kẻ đi t́m chân lư rằng Kitô giáo là công tŕnh của Thiên Chúa thật, Đấng duy nhất đă có thể ban cho con người một tôn giáo trọn hảo như thế.

Để nói vắn tắt một lời, người Xiêm La hài ḷng mà lắng nghe những bài giảng lôi cuốn họ về vương quyền của Đấng Tạo Hoá, nhưng họ không dễ dàng chịu khổ sở khi người ta giác ngộ họ khỏi những mê tín của họ. Khi họ nhận ra là quư bạn mang tham vọng cho họ hiểu tỉ mỉ cái điều họ đang tin tưởng, họ sẽ chẳng c̣n cái lỗ tai nào để lắng nghe bạn nữa đâu.

Chớ ǵ Chúa vui ḷng mà soi sáng cho họ bằng ơn sủng của Ngài, ngơ hầu một khi đă trở lại, họ từ bỏ được cái hăo huyền của các ngụy thần và gắn bó vào việc phụng sự và thờ phượng Thiên Chúa hằng sống.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 14

Thời Đức cha Beryte ở Xiêm La và buổi đầu sứ vụ thừa sai

 

Đức cha Beryte vừa đặt chân tới xứ Xiêm La th́ tiếng đồn thổi đă vang khắp cả khu vực người Kitô giáo rồi, điều ấy làm ngài phải đến chào hỏi ông cai trưởng khu người Bồ Đào Nha. Ông ta tiếp rước đức cha rất ân cần và sửa soạn ngay cho ngài một nơi cư trú cạnh nhà ông ta (1). Ông ta c̣n báo tin đức cha đến cho các linh mục và tu sĩ trong thành phố được hay, phần lớn các vị này đều tới kính viếng đức cha theo như thông lệ bản xứ.

Sau các phép tắc xă giao ấy, chúng tôi chỉ c̣n nghĩ tới việc phải lo nghỉ ngơi trong thời gian ở tại thành phố này. Đă hơn một năm nay, chúng tôi chỉ biết có đi mà thôi, với thật nhiều mệt mỏi và xao lăng tinh thần. Bởi thế nên chúng tôi tin là phải tránh các cuộc chuyện tṛ qua lại và lo sống thanh vắng yên tịnh. Đức cha Beryte là người đầu tiên đă cho chúng tôi một gương sáng bằng một cuộc cấm pḥng dài một tháng trời. Suốt thời gian ấy, ngài chuyên chú lo tiên liệu và sắp đặt mọi sự liên quan tới sứ vụ thừa sai mà ngài lănh nhận trách nhiệm, sứ vụ mà ngài đang ở bên cạnh rồi. Phần chúng tôi, chúng tôi cũng bắt chước theo ngài.

Sau khi đổi mới con người lại phần nào nhờ việc cấm pḥng, mọi ưu tư và lo toan của chúng tôi là dốc toàn lực tập đọc và học hỏi tiếng bản xứ Trung Hoa và tiếng bản xứ Đàng Trong (2), nơi mà chúng tôi chỉ c̣n cách xa ba tuần lễ mà thôi. Nhờ ơn Chúa, chúng tôi gặp được hai Kitô hữu người hai xứ nói trên, họ hiểu tiếng Bồ Đào Nha và sẵn ḷng dạy cho chúng tôi hai thứ ngôn ngữ ấy.

Hai người Kitô giáo tốt bụng này đă cho chúng tôi hay là tại Xiêm La có nhiều người Đàng Trong lắm: kẻ th́ là Kitô hữu, kể th́ theo Ngụy giáo, một vài kẻ th́ chẳng theo tôn giáo nào cả. Lần đầu tiên khám phá ra chuyện đấy, đức cha Beryte tin rằng ngài có trách nhiệm phải khởi sự sứ vụ thừa sai của ḿnh bằng cách giảng dạy cho các người xứ Đàng Trong này là những bổn đạo của ngài (3). Bởi v́ lẽ đó, sau những lần phải t́m kiếm, ngài đă gặp được hơn một trăm người Đàng Trong: tức khắc, chúng tôi lo liệu phương tiện hầu dạy cho họ hiểu biết về Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đă chịu đóng đinh trên thập giá, là điều hệ trọng cho sự sống đời đời.

Với niềm vui mừng và sự kính trọng, đức cha Beryte đến cho ông cai trưởng khu người Đàng Trong, là người Kitô giáo, rơ các ư nguyện của đức cha, và cho nhiều người khác, là những người đă nhận được quà biếu của đức cha (4), được hay là ngài đến lo việc phần rỗi đời đời với họ. Trong mục đích ấy, họ và chúng tôi cùng thỏa thuận dùng một căn nhà làm nơi đức cha Beryte đến dâng Thánh lễ nửa đêm. Ngài cho họ một huấn từ bằng tiếng Bồ Đào Nha là tiếng nhiều người hiểu được. Sau đó, vài thông dịch viên đă giải nghĩa cho những kẻ không hiểu tiếng Bồ Đào Nha.

Những buổi ban đầu ấy tuy nhỏ bé song đă để lại những tiếp nối khá vui mừng, ân thưởng cho các khó nhọc và công việc mà chúng tôi đă chịu để đến được xứ Xiêm La. Ta sớm nhận ngay được hoa quả của lời Thiên Chúa khi mà ta rao giảng v́ yêu mến Ngài. Đoàn chiên nhỏ bé người xứ Đàng Trong ấy, tụ hợp lại như t́nh cờ như ngẫu nhiên nơi một thành phố xa lạ (5), đă tỏ ra một ḷng khao khát khôn tả muốn nghe giảng về các mầu nhiệm trong đạo của chúng ta: ḷng khao khát đó thể hiện rơ nơi sự trung kiên và chính xác của họ khi họ phải đến trong những ngày đă định để nghe giảng dạy nơi ngôi nhà nguyện mà chúng tôi đă cho dựng lên. Mặc dầu họ nghèo túng hoặc bận bịu công việc buôn bán, họ cũng bỏ tất cả để đến nghe chúng tôi giảng dạy.

Tôi khó nói ra hết được niềm vui sướng của chúng tôi nh́n thấy nơi những người ngoại giáo này một tinh thần sẵn sàng đến thế và nói ra hết được nỗi hăng say của chúng tôi t́m nâng đỡ nhiệt huyết mà họ thể hiện ra. Nhờ đó, chúng tôi bắt đầu nếm hưởng hạnh phúc của ơn gọi chúng tôi, bắt đầu hiểu ra rằng những kẻ đă muốn chúng tôi quay đầu đi trước công việc của chúng tôi khi chúng tôi c̣n ở Pháp là họ đă lầm lẫn biết chừng nào, và bắt đầu nh́n rơ là các lư luận họ đưa ra để kích bác lập trường của chúng tôi là thực vô ích và vô căn cớ. Những kẻ ấy đă cảnh cáo chúng tôi về khó khăn đường xá, mà chúng tôi vẫn thực mạnh khỏe sau khi đi đến cùng. Họ nói với chúng tôi là chúng tôi bỏ công việc vững chắc đi lo những công tŕnh bấp bênh, mà chúng tôi lại nghiệm thấy khác hẳn với sự dễ dàng trong việc cho dân Đàng Trong tại Xiêm La nếm mùi ngọt ngào của các chân lư ơn cứu rỗi.

Hẳn sẽ có người ṭ ṃ xem coi chúng tôi đă giới thiệu những điều trong đạo cho dân Đàng Trong này bằng cách nào và xem coi chúng tôi có xử dụng tới những luận lư uyên thâm và cao siêu chăng. Chắc chắn là chúng tôi khó mà xử dụng được những luận lư tŕnh độ trên, chúng tôi chỉ cắt nghĩa qua người thông dịch bằng tiếng Bồ Đào Nha là tiếng chúng tôi chỉ biết có phân nửa, chúng tôi không thể đem ra áp dụng những bài thuyết giảng mỹ miều mà chúng tôi mượn được trong nền thần học và đă được chuẩn bị từ hồi c̣n ở Pháp. Chúng tôi trong t́nh trạng cần kíp phải đặt cái đơn sơ giản dị của đức tin lên trên hết. Cái nghệ thuật hùng biện trở nên vô ích đối với chúng tôi, chúng tôi tự ư loại bỏ cái nghệ thuật ấy đi để tin cậy nhiều hơn vào Thiên Chúa. Chỉ có ḿnh Ngài mới đánh động ḷng con người và ban hiệu quả cho lời rao truyền trong danh Ngài và v́ vinh quang của Ngài. Chúng tôi nhận xét là những đề nghị rơ ràng đơn giản về các lẽ đạo thánh chúng ta, tự chúng, đă mang ấn tượng thần linh rồi, đến đỗi tinh thần dân ngoại vốn phản loại và đầy u mê lầm lạc đă bị rung động một cách kỳ lạ. Nếu có ai cưỡng chống lại th́ chẳng phải là do ḷng kém tin phục chân lư, cho bằng là v́ ḷng phản kháng thầm kín bên trong bởi họ đă liều ḿnh vào t́nh cảm đồi trụy và bê bối.

Tuy nhiên có ba điều quan trọng hơn cả đối với dân ngoại: thứ nhất là về cái hư không, phàm hèn và vô luân nơi Ngụy giáo; thứ hai là nhận biết sự thánh thiện của phép tắc Kitô giáo; thứ ba là những kẻ giảng dạy phép đạo ấy đừng v́ hành vi ḿnh mà làm hư hại đến sự thánh thiện nói trên. Trái lại, đời sống, lời giảng dạy và cách cư xử của họ phải diễn tả trung thành ra sự tinh tuyền, thánh thiện và nhân đức mà Chúa Giêsu Kitô đă đ̣i hỏi hay khuyên dạy. Do ḷng nhân từ của Ngài, Ngài sẽ không quên soi ḷng những kẻ mù quáng đáng thương, bằng các ân sủng không thể diễn tả ra được, để họ nhận biết chân lư nơi những điều được loan truyền. Kitô giáo hàm chứa những sự tuyệt vời cả thể khiến con người nhận ra ngay đó là công tŕnh của Thiên Chúa. Cũng đă tạm đủ nếu ḿnh mở mắt ra mà chiêm ngắm vũ trụ để xác nhận sự hiện hữu và khôn cùng của Tác Giả vũ trụ này. Khi ḷng ḿnh, nhờ ân sủng Chúa, đón nhận những chân lư mà đấng Cứu Thế đă đem đến cho chúng ta, th́ sẽ khám phá ra những dấu hiệu thầm kín của Chúa ban. Khi đă kính cẩn, tin tưởng và tuân theo những chân lư ấy, con người cảm nhận ra rằng chân lư đem lại hiệu quả mầu nhiệm trong ḷng, hiệu quả do những nguyên nhân siêu nhiên đưa tới.

Do đó, một cách thực tiễn đối với dân gốc xứ Đàng Trong này, chúng tôi mời họ nh́n biết Thiên Chúa là đấng Tạo Hóa, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Ngài. Chúng tôi chỉ dẫn họ nh́n ra sự quan pḥng của Chúa, vừa tuyệt diệu vừa bao la, đă cho họ tràn ân huệ nhằm kêu mời họ đến t́nh yêu Ngài. Thứ đến chúng tôi dạy họ một ít ư tưởng về lề luật thánh thiện của Thiên Chúa cũng như sự cần kíp phải khuất phục những lề luật rất công b́nh thánh thiện ấy hầu đạt sự sống đời đời. Sau nữa, chúng tôi loan báo về Chúa Giêsu Kitô: sự giáng sinh, cuộc đời, những phép lạ, giáo lư của Ngài, rồi những mầu nhiệm thương khó và t́nh yêu vô biên Ngài ban cho con người, cho kẻ tội lỗi, cho kẻ ngoại đạo, khi Ngài chết cho phần rỗi của họ, chủ yếu là Ngài tiêu diệt trên thế gian này những sự phượng thờ vô đạo của Ngụy giáo, triệt hạ cái danh dự của chúng mà đúng ra là của Thiên Chúa Cha của Ngài, Chủ Tể muôn loài muôn sự.

Những người dân Đàng Trong này tỏ ḷng khao khát được giảng giải sâu rộng về chân lư các sự thể nói trên. Họ cư ngụ xa cả dặm đường, song mỗi tuần ba lần, họ đi đến học giáo lư với chúng tôi. Mới sau một thời kỳ dạy dỗ, một số trong họ đă công khai xin chịu Phép Rửa Tội và xin được học hỏi riêng về các điều trong đức tin chúng ta. Thực t́nh mà nói, nếu chúng tôi muốn nhượng bộ và thỏa măn ước mong vô cùng của các dự ṭng tốt lành này, chúng tôi đă có thể ban Phép Rửa Tội sau hai hoặc ba ngày trời dạy dỗ. Tuy nhiên nhiều nhận định khác nhau đă buộc chúng tôi phải hành động cách khác. Bởi chưng rửa tội một cách dễ dàng những kẻ ngoại giáo là điều sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng (6).

Cẩn thận như trên, đối với chúng tôi, lại càng có vẻ cần thiết hơn nữa tại các chốn này là nơi cánh cửa trở lại Ngụy giáo và các thói xấu luôn luôn mở ngỏ, là nơi mà đạo bị nhiều thành kiến v́ những kẻ hời hợt đă bỏ đạo, hay đă làm gương xấu do đời sống thác loạn và thường trở nên kẻ thù của đạo, gây mất tín nhiệm và làm lạc đường kẻ khác. Chúng tôi chỉ chấp nhận Phép Rửa cho ai mà chúng tôi thấy thực sự đă dược dạy dỗ, ao ước trở lại và đă tỏ ra kiên cường.

Theo phương châm ấy, chúng tôi nhận là thời gian đă đủ đối với ba người xin rửa tội trước tiên, đầu tiên là anh tên gọi Giuse: anh ta khoảng 30 tuổi, chúng tôi thấy có sự kỳ diệu nào đó nơi anh. Từ ngày được rửa tội, anh luôn luôn tiến bộ trong đàng nhân đức: có lẽ coi được là v́ anh là người con đầu tiên của sứ vụ thừa sai nên anh hưởng được đặc ân thường ban cho quyền trưởng tử.

Sau khi đă chu đáo chuẩn bị cho những người xin Phép Rửa Tội, chúng tôi thấy không c̣n ǵ ích lợi hơn cho phần rỗi của họ là dạy họ những việc đạo đức vững vàng của các Kitô hữu: như các cách thức khác nhau khi cầu nguyện, các kinh thờ lạy kính mến Chúa, các kinh dục ḷng ăn năn tội, cũng như cách suy ngắm về ơn lành của Chúa, về ḷng yêu mến đối với Chúa Giêsu Kitô, lănh nhận các bí tích Chúa đă lập nên để thánh hoá chúng ta.

Họ hưởng nếm những lời dạy dỗ ấy với ḷng tŕu mến và đem thực hành ngay. Nhờ thường xuyên như vậy, họ càng ngày càng trở nên sốt sắng và gắn bó với đạo mà họ vừa lănh nhận, được thêm sức mạnh chống trả cơn cám dỗ trở lại Ngụy giáo.

Một thời gian ngắn sau khi tập tành thói quen trên, nhiều kẻ ngoại đă dến tŕnh bày với chúng tôi những điều họ c̣n nghi ngờ và xin lănh Phép Rửa Tội. Có ba má kẻ ngoại nọ đến nói với chúng tôi là họ ước ao làm người Kitô giáo, và để làm chứng ḷng thành ḿnh, họ xin chúng tôi rửa tội cho đứa con duy nhất của họ trong lúc đợi chờ ngày họ được lănh nhận Phép Rửa Tội mà họ hết dạ mong muốn. Chúng tôi rất vui mừng chấp nhận lời xin chính đáng ấy.

Ḷng nhân từ Chúa tiếp đó c̣n mở mắt cho nhiều dân ngoại khác. Có sáu người trong họ cùng cầu xin được rửa tội như thế. Sau khi dạy bảo và biết họ thực tâm trở lại, chúng tôi rửa tội cho họ theo thói quen xưa của Giáo Hội vào thứ bảy Tuần Thánh, Phép Thêm Sức vào hôm sau, rồi Rước Lễ lần đầu vào chúa nhật kế tiếp. Chúng tôi lưu lại nhiều người khác v́ họ chưa học hỏi đủ.

Một sự việc cho chúng tôi thấy rơ ràng hành động của Chúa và chút hành động của con người trong việc cải hoá các linh hồn là thái độ người dân ngoại đón nhận đức tin.

Một vài dân ngoại vừa mới nghe nói về những chân lư đầu tiên trong đạo, chẳng xem xét chi cả, đă xin tin nhận đức tin. V́ chúng tôi chưa hề quen với cách thức đưa đẩy trên của Chúa Thánh Thần, chúng tôi chỉ mới tạm tin họ. Về sau này, chúng tôi mới yên tâm hơn. Thực là không hiểu quyền năng của Chúa Giêsu Kitô và những ǵ Ngài đă làm xưa kia khi nghi ngờ hiệu lực sự soi sáng thúc dục của Ngài. Lúc gọi một trong các Thánh Tông Đồ, Ngài chỉ nói có một tiếng: «Hăy theo Ta». Chúa vẫn tiếp tục dùng thứ ngôn ngữ ấy mà nói trong ḷng dân ngoại, thầm kín nhưng mạnh mẽ: «Hăy theo Ta, nghĩa là hăy từ bỏ bụt thần mà thờ lạy Thiên Chúa là Thiên Chúa thật».

Thực t́nh không phải mọi người đễu tỏ ra dễ dàng vâng phục và lẹ làng đâu. Nhiều kẻ đă chống đối rơ ràng ra bên ngoài. Tuy vậy, nhờ chuyên cần đến nghe lời Chúa và cương quyết không để bị thua trận, họ đă nhận lấy ách êm ái của Chúa Giêsu Kitô.

Một thừa sai trong chúng tôi, gặp một phụ nữ ngoại giáo bên cạnh nhà, hỏi bà ta có thích nghe nói về đạo của Thiên Chúa thật và làm người Kitô giáo không. Bà trả lời là bà chẳng hiểu cái đạo của Thiên Chúa thật là ǵ, nhưng nếu đúng là cái đạo bà muốn trong ḷng th́ cứ giảng giải cho bà rơ. Chúng tôi cũng đề nghị như thế với một anh chàng ngoại giáo người Đàng Trong đi ngang qua trước cửa nhà, anh chàng đáp là chẳng biết Kitô giáo là ǵ, song nếu anh chàng được chỉ dẫn và nếu đạo hợp lư th́ anh chàng sẽ tin nhận. Chúng tôi tiếp nhận lời anh ta, chỉ định ngày giờ và nơi chốn để nói chuyện với anh ta. Rồi sau nhiều buổi thảo luận, đă đủ thông hiểu, anh bỏ ngoại giáo, nhận Phép Rửa Tội, mang thánh hiệu Lu-ca.

Kitô hữu đầu tiên của chúng tôi, anh Giuse, tỏ ra luôn sốt sắng và trong sạch. Anh cư ngụ bên kia con sông rộng, mỗi lần đến học giáo lư, anh ta lại phải bơi qua sông. Từ ngày được rửa tội, anh thận trọng tránh bỏ mọi tội lỗi. Cái khổ sở nhất nơi anh là khi dọn ḿnh xưng tội, v́ anh không thấy phải xưng ra những ǵ mặc dầu đă xét ḿnh cẩn thận như phải làm.

Tôi sẽ bỏ qua nhiều chuyện loại này liên quan đến việc dạy bảo những kẻ đă chịu Phép Rửa Tội. Nếu tôi đă kể chuyện trở lại của một số ít người ngoại nơi đây là chỉ v́ danh Chúa mà thôi và để ai đă cho là lo việc phần rỗi dân ngoại là chuyện rất khó, biết thay đổi ư kiến. Chớ ǵ họ biết nh́n nhận như Thánh Phanxicô Xavier rằng nếu trên đất ngoại c̣n lắm kẻ phải mất đi đời đời th́ chỉ là do bởi không có người rao giảng chỉ cho họ con đường cứu độ vĩnh cửu.

Sự thực là con người chẳng có phần nào trong công tŕnh hoán cải tâm can người khác, đặc biệt là tâm can người dân ngoại, nhất là trong t́nh huống mà chúng tôi đă thấy. Chúng tôi tường thuật lại nơi đây là giúp xây dựng cho bạn đọc Kitô hữu, vốn nhiệt thành với việc truyền bá Nước Chúa Giêsu Kitô. Tại xứ Xiêm La, chúng tôi là người ngoại quốc, lại không được một vài người Kitô giáo khác ưa thích v́ lư do dân tộc của họ, họ chỉ nh́n chúng tôi cách khó chịu (7). Chúng tôi không hiểu biết tiếng nói dân xứ Đàng Trong, học hỏi được ít tiếng Bồ Đào Nha để bập bẹ về các mầu nhiệm đức tin chúng ta với những người đầu tiên trong số các bổn đạo mà v́ cho họ chúng tôi đă được sai đi. Tuy nhiên Thiên Chúa lại đă ban niềm tin cho ḷng chúng tôi, xoá tan đi nỗi e ngại, qua những lần thử nghiệm giáo lư đầu tiên đă đem lại kết quả tốt đẹp như thế. Phần lớn những người Đàng Trong trên đă chịu Phép Rửa Tội, và một số lớn dân Đàng Trong ấy vốn đă là Kitô hữu song thiếu dạy bảo hoặc đă quên giáo lư, đều đă được chỉ bảo lại và tất cả đều đă được chúng tôi lo giải tội cho (8).

Về tất cả mọi điều trên, ta rút ra hai hệ quả sau: thứ nhất là có rất nhiều sự tốt lành khi lo việc trở lại cho dân ngoại tại các xứ Đông Phương, nơi mà chúng tôi đă được sai đến; thứ nh́ là để thực hiện sự tốt lành ấy, cần thiện chí hơn là cần tài ba tinh thần, trông cậy vào Chúa Giêsu Kitô hơn là vào con người ḿnh. Việc hoán cải dân ngoại sẽ tiến bộ nhiều nếu những ai được gọi vào sứ vụ trên có nhân đức vững vàng, sẵn ḷng hy sinh v́ Thiên Chúa và quyết tâm bỏ ḿnh v́ phần rỗi anh em.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 15

Tiếp theo những công việc của chúng tôi trên đất Xiêm La cho tới lúc đức cha Beryte đi sang Quảng Đông, hải cảng đầu tiên của Trung Hoa

 

Bởi v́ chúng tôi chỉ nghĩ tới việc sớm xuống tàu để sang những nơi thuộc sứ vụ thừa sai của chúng tôi, nên càng thấy tinh thần sẵn sàng đón nhận đức tin nơi những người gốc xứ Đàng Trong, chúng tôi lại càng cảm thấy niềm mong ước đến xứ sở của họ dâng lên trong ḷng ḿnh.

Vào lúc đó, nhiều lái buôn người Kitô giáo từ Tenasserim đến cho hay họ rời Massulpatan hồi tháng Chín sau khi đă để lại đấy một số giáo sĩ người Pháp và có một giám mục đă qua đời tại đấy lúc họ sắp xuống tàu sang Tenasserim. Họ đưa tin cho chúng tôi như thế và kể ra bao nhiêu là sự thể khiến chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Chúng tôi đă phải bàn thảo với nhau, v́ vào dịp này chúng tôi không hề được thư từ của các bạn bè đă hứa là sẽ viết cho chúng tôi và v́ thời gian c̣n đủ để đi Tenasserim cho rơ tường tận về chuyện người ta đă nói. Chúng tôi quyết định phải cấp tốc ra đi.

Tôi được đức cha Beryte phái ra đi theo đường bộ. Tôi phải mất 20 ngày đường mới đến Tenasserim. Trong thời kỳ đó, suốt mấy ngày trời, tôi phải chịu cực không ít v́ một tên người Bồ Đào Nha: hắn t́m cản trở ông «Orăta» là người giúp việc thông dịch cho người ngoại quốc, lo gửi cho tôi giấy tờ thông hành. Hắn có ư không cho tôi gặp lại đức cha Beryte vào đúng ngày giờ để theo ngài xuống tàu sang Quảng Đông là hải cảng đầu tiên của Trung Hoa. Tuy nhiên tôi đă lấy được những ǵ tôi yêu cầu và buộc tên Bồ Đào Nha trả lại tôi những thư từ của đức cha Beryte mà hắn muốn giữ lấy.

Suốt thời gian tôi vắng mặt, người ta vẫn tiếp tục tận t́nh lo dạy bảo và lo việc trở lại của đoàn chiên nhỏ bé mà Chúa Quan Pḥng đă trao cho chúng tôi. Nhất là lo kéo hai phụ nữ ngoại giáo ra khỏi cái cực kỳ mù quáng của hai bà: đă ḍng dă hơn bốn tháng trời, chẳng ai làm được ǵ cho hai người này, họ tuyên bố công khai là họ nh́n nhận Kitô giáo là đạo ngay thật song thà họ bị án phạt c̣n hơn là đi theo đạo. Nhưng Thiên Chúa là đấng chinh phục các cơi ḷng đă khiến họ phải chịu đầu hàng như sau.

Một trong hai phụ nữ này, đă kết hôn với một người bổn đạo mới của chúng tôi, bị lên cơn sốt kịch liệt. Một trong các thừa sai đến viếng thăm, đă tỏ ra cảm thương bà ta và lo săn sóc bà ta trong những ǵ có thể. Ngài cắt nghĩa cho bà hiểu đâu là cái nguy hiểm của sự chết đời này và sự chết đời sau, khuyên bà ta thôi đừng phản loạn chống là sự soi sáng của Chúa và nói nếu bà hứa sẽ nhập đạo th́ ngài sẽ gửi thuốc thang mà với sự pḥ hộ của Chúa sẽ giúp bà lành bệnh. Như vậy cũng đă đủ để bà ta không c̣n công khai chống lại những điều người ta khuyên bảo. Hôm sau, chúng tôi gửi cho bà một gói thuốc to, uống vào, bà khỏi sốt. Ngày hôm sau nữa, người giáo sĩ lại tới viếng thăm. Chẳng cần phải nói thêm nhiều, bà ta cho biết là bà dứt khoát xin theo Kitô giáo, mà bà ta sau đó đă giữ rất trung thành. Chuyện trở lại này làm cho mọi bổn đạo người Đàng Trong được vui mừng và thêm niềm tin cho các thừa sai.

Mười lăm hôm sau đó, người phụ nữ thứ hai, góa bụa và rất tin các dị đoan ngoại giáo, đă đến tuyên bố là Thiên Chúa đă đánh động ḷng bà và bà gớm ghét các ngẫu thần cùng các điều dị đoan xấu xa. Bà muốn tôn theo đạo của Thiên Chúa thật.

Niềm vui mừng v́ hai cuộc trở lại trên được tiếp nối bằng một niềm vui khác của quăng hai mươi người Đàng Trong. Họ thuộc những người bị đưa ra trận hồi đầu tháng Hai. Trong số đó có nhiều người Kitô giáo mà hai trong số đă được chịu Phép Rửa Tội ngay hôm lên đường. Chuyện ra trận đột ngột ấy của các người lính Đàng Trong mới trở lại đạo đă làm các thừa sai buồn bă không ít v́ thấy đoàn chiên bị giảm số xuống và đức tin của các người ra đi chưa được vững vàng. Bởi thế chúng tôi cầu nguyện liên lỷ, chung cũng như riêng, để họ sớm được trở về. Chẳng bao lâu, chúng tôi hay tin họ sắp trở lại, cả Giáo Hội đều hoan hỷ mừng rỡ: lệnh trên cho xuống các đoàn quân trong số đó có những lính Đàng Trong là được trở về.

Chúng tôi được nhẹ đi trong ḷng khi các Kitô hữu tốt lành này trở về. Vừa gặp lại một trong các thừa sai, họ liền chạy ngay tới ôm cổ ngài, gọi ngài bằng cha của họ. C̣n kẻ ngoại th́ kêu lên rằng họ không c̣n muốn ngụy thần nữa, rằng họ mong ước thành Kitô hữu, rằng họ đă học thuộc các kinh trong đạo, các điều phải tin, Mười giới răn Chúa, và sáng tối họ đă cùng đọc kinh với nhau.

Chuyện trở lại đạo này, sau Thiên Chúa ra th́ phải kể đến công của viên đội trưởng người Đàng Trong là người Kitô giáo: trên binh thuyền, mỗi ngày hai bận trước mặt mọi người, ông xướng kinh cầu nguyện cho các binh lính thuộc đạo thánh chúng ta. Khi viên chỉ huy hỏi sao ông lại đi đọc những kinh lạ lùng và vô ích cho đất nước như vậy, th́ ông điềm đạm trả lời rằng làm như thế ông không c̣n sợ hăi súng đạn kẻ địch nữa. Và mặc dù ông đội trưởng này không hề bắt buộc, các binh lính ngoại giáo, v́ cảm kích gương sáng, cũng muốn bắt chước ḷng đạo đức của ông ta. Họ c̣n hứa là ngay khi họ có thể trở về họ sẽ xin chịu Rửa Tội.

Xứ Xiêm La không thuộc sứ mệnh thừa sai của chúng tôi (1) và đức cha Beryte chỉ dừng chân ở đó chờ dịp đi Trung Hoa qua đường biển lâu độ ba tuần lễ. Tuy nhiên, đức cha tin là ngài có bổn phận phải hết ḷng nâng đỡ việc đạo đức của những bổn đạo mới này mà ngài vừa đem về cho Chúa Giêsu Kitô. Ngài lại tŕu mến xem họ như những hoa quả đầu mùa của việc tông đồ ngài. Bởi thế, ngài quyết định xây dựng một nhà thờ nhỏ, rẻ tiền, làm nơi cho đám dân này xem lễ các ngày lễ trọng và hội họp chung để làm việc suy gẫm các chân lư Kitô giáo theo cách thức đă được dạy bảo. Đức cha bỏ tiền mua sắm vật liệu, các bổn đạo nhiệt thành th́ ráo riết lo việc xây cất. Nhờ đó, nhà thờ đă thành h́nh có thể làm phép được trước khi đức cha Beryte lên đường ra đi. Ngài cũng cho dựng thêm một nếp nhà bên cạnh nhà thờ để một giáo sĩ cư ngụ, lo dạy dỗ các tân ṭng này, bao lâu c̣n cần đến, để chuẩn bị họ lănh nhận các Bí Tích (2). Trong khi đó, đức cha Beryte cắt đặt ngăn nắp mọi sự để có thể xuống tàu ra đi khi tôi từ Tenasserim trở về. Tôi đă đi Tenasserim để đón đức cha Heliopolis mà người ta tin là đă tới đó cùng với bảy hoậc tám thừa sai.

Ngôi nhà thờ mới được đặt sự bảo trợ của Thánh Cả Giuse vinh hiển. Thánh Cả đă là thánh bổn mạng của Kitô hữu đầu tiên của chúng tôi là người đă tỏ ra được nhiều ơn đặc biệt. Bởi vậy, chúng tôi nghĩ là sứ vụ thừa sai sẽ được nhiều ơn phúc, khi các hoa quả đầu mùa của Giáo Hội khai sinh này được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Cả.

Giữa đám bổn đạo mới này, sống xa quê hương, vài người bị rơi vào cảnh khó khăn đều được chúng tôi giúp đỡ hay cho vay mượn tiền bạc. Cái cách xử sự như thế nhiều ít đă giúp họ hiểu là chúng tôi rời bỏ quê quán ḿnh, vượt đường xa, là chỉ v́ tinh thần bác ái, một tinh thần bác ái chỉ thấy có trong Kitô giáo. Kitô giáo dạy phải đặt niềm trông cậy vào Thiên Chúa, các thừa sai lại càng cần tỏ ra không những vô vị lợi mà lại c̣n phải sẵn sàng lợi dụng mọi dịp để sống nghèo cách vui vẻ để cho kẻ khác thêm giàu có. Mặc dầu cần phải tiết kiệm nhiều sau khi đă tiêu hao suốt hai năm hành tŕnh, đức cha Beryte đă không ngần ngại áp dụng cách ngôn của đấng Khôn Ngoan rằng: «Hăy làm việc thiện nào có thể làm được khi cơ hội đưa đến».

Đấng Quan Pḥng đă cho đức cha gặp một cơ hội làm việc thiện mà ngài vui vẻ nhận lấy: một chiếc tàu thuộc vua nước Tây Ban Nha trên đường đi Ternate gặp gió ngược đă phải cặp vào bến Xiêm La. Con tàu tơi tả, rách nát v́ chịu giông tố qua đă nhiều ngày trời, chẳng c̣n lương thực, dụng nghệ, và tệ hơn nữa là chẳng c̣n tiền c̣n bạc, chỉ c̣n chờ cơn khổ ải cuối cùng ập đến. Đức cha Beryte biết chuyện th́ nghĩ là ngài phải theo ḷng bác ái Kitô giáo mà giúp đỡ con tàu đáng thương này. Ngài sai một giáo sĩ tới trao cho vị thuyền trưởng hai trăm quan tiền ê-cu và ngỏ lời với ông rằng các giáo sĩ người Pháp rất tiếc không thể giúp ông ta nhiều hơn được v́ công việc và sứ vụ thừa sai mà các ngài có trọng trách. Vị thuyền trưởng người Tây Ban Nha tiếp nhận quà tặng của các ngài biếu v́ thành tâm, và v́ biết rằng tiền bạc trên là hoàn toàn dùng vào việc phụng sự Thiên Chúa, chỉ khiêm tốn nhận lấy có phân nửa, nói thêm là ông ta nhận v́ quá cần thiết mà thôi. Sau đó, ông ta khoe khắp nơi về hành vi nhân đạo trên của các người Pháp Kitô hữu, và khi vừa trở lại Manila ông liền cho quan toàn quyền và đức tổng giám mục ở đó được hay.

Người ta có thể cho rằng cái cách ban phát như vậy sẽ làm cho sứ vụ thừa sai thêm nghèo túng đi vào lúc mà có bao nhiêu cũng chưa đủ, nếu tính đến những sự phải làm khi thiết lập sứ vụ tại giữa đất Trung Hoa, không được ai nâng đỡ và không hy vọng nhận được trợ cấp từ Âu Châu trong một thời gian dài sắp tới. Nhưng cần xem thấy là những người Tây Ban Nha này không thể t́m vay mượn được, bởi v́ theo thói quen bản xứ, người ta chỉ cho mượn tiền nếu cho bảo chứng thật lớn và lấy tiền lăi rất nặng. Hơn nữa có lời nói rằng nếu tự ư nghèo đi một chút th́ cũng chẳng tổn hại chi cho kẻ thực ḷng muốn tham dự vào tinh thần tông đồ. Mọi thứ ta cho đi trong cái nh́n ấy sẽ lại tăng lên cả trăm lần. Thật dễ mà suy luận rằng, nếu Thiên Chúa đă lo liệu cho đoàn thuyền viên ấy, th́ những kẻ đă bỏ mọi sự để phục vụ Ngài mà chẳng may rơi vào cảnh thiếu thốn tương tự, họ không phải mất niềm hy vọng.

Vào thời gian đó, có 9 dự ṭng xin chịu Phép Rửa Tội. Người ta chỉ ban Phép cho có 3 người, v́ đức cha Beryte sắp khởi hành đi Trung Hoa nên quá vội để rửa tội cho 6 người c̣n lại mà ngài xét là chưa dạy dỗ họ cho đủ. Ngài dành cho vị giáo sĩ đă đi Ternasserim, mà ngài đă ra lệnh phải lo hoàn tất việc chỉ dẫn họ để giúp họ tham dự vào hồng ân của Chúa.

Đang lúc đức cha Beryte chờ đợi tôi trở về để biết tin hành tŕnh của đức cha Heliopolis và các giáo sĩ theo đức cha th́ lại có một dịp thuận tiện để ngài sang được Quảng Đông là một trong các hải cảng của Trung Hoa. V́ chuyến đi này gấp rút lại là chuyến tàu cuối cùng căng buồm đi cảng Quảng Đông, nên đức cha Beryte quyết định không bỏ lỡ dịp.

Ngài đă lỡ mất ba chuyến tàu sang nơi đó v́ cứ chờ tin đức cha Heliopolis mà ngài biết là đă tới gần kề. Và đức cha xét là để giải quyết những khúc mắc xảy ra th́ phải cho một trong các giáo sĩ của ngài trở lại Âu Châu lo cho công chuyện của sứ vụ thừa sai của họ. Ngài đă để lại các công văn và thư tín mà vị giáo sĩ ấy sẽ là người đưa đi. Nhiều lư do buộc phải gửi người về lại Âu Châu: cần phải xin Đức Thánh Cha và Thánh Bộ (3) quyết định, quyết định cần thiết về những điều khó khăn (đang gặp), để c̣n hướng dẫn những Giáo Hội sơ sinh này, là nơi rất có nguy cơ xẩy ra những lầm lỡ mà rất khó sửa chữa lại sau đó. Bởi v́ những lạm dụng tôn giáo trong xứ này dễ trở thành thông lệ. Không phải là kém quan trọng việc xin quyền bề trên quyết định cho các khó khăn hầu, mỗi người khi đă tuân phục, sự thuần nhất sẽ được tuân giữ (4).

Chúng tôi vô cùng lo buồn v́ chẳng nhận được thư từ nào đă ba năm nay từ khi bỏ nước Pháp ra đi. Cũng có lư mà ngại rằng những thư từ mà người ta viết cho chúng tôi đă bị chận lấy, cũng như thư từ mà chúng tôi đă gửi đi từ nhiều nơi khác nhau. Và không phải là kém hữu ích phải chỉ dẫn cho đích thực và chi tiết con đường mà chúng tôi đă theo và ngày qua ngày nhờ người Âu Châu thường xuyên qua lại, con đường ấy sẽ trở nên dễ dàng hơn. Chúng tôi c̣n nghĩ rằng thực là quá đơn sơ khi đă bắt đầu sứ vụ thừa sai của các giáo sĩ Pháp (như chúng tôi đă thực hiện). Nếu người ta nghĩ tới phương cách nâng đỡ và bảo tồn sứ vụ thừa sai, th́ phải gửi những thợ thừa sai mới sau khi đă chuẩn bị họ kỹ càng vào chức vụ tông đồ. V́ nhận xét như trên, đức cha Beryte buộc ḷng phải sai một giáo sĩ của ngài lại vượt đại dương. Tuy nhiên, ngài vẫn sẵn sàng khởi sự đi Trung Hoa và hy vọng đến nơi sau ba tuần lễ nữa.

Hầu không c̣n để thiếu xót sự ǵ có lợi cho sứ vụ thừa sai của ngài, đức cha Beryte viết một lá thư kính chào đức tổng giám mục thành Manilla (5) và quan tổng toàn quyền xứ Phi Luật Tân. Ngài cũng viết cho ông toàn quyền Hăng hải thương Ḥa Lan, luôn luôn ngụ tại Battavie, để hân hạnh xin sự che chở của ông ta. Đức cha đă cao thượng hứa bảo đảm với ông ta rằng các giáo sĩ Pháp không có cái ư hướng nào khác trong công tŕnh của họ hơn là việc hoán cải các linh hồn và xây dựng việc thờ phụng Thiên Chúa thật. Ngài c̣n viết cho cha phó tỉnh Ḍng Tên ở tại Macao (6) để thông tin cho cha những ư định của Toà Thánh về việc sai gửi các đức cha giám quản tông toà đến những nơi truyền giáo mà do quyền ngài điều khiển. Đức cha cũng viết đến các cha Ḍng Tên người Pháp hiện đang làm việc thành công trong những sứ vụ thừa sai to lớn.

Là điều yên ủi cho chúng tôi khi nh́n thấy các cha Ḍng Tên của Pháp được nhiều sự kính phục tại các khu vực này. Đó là bằng chứng cho thấy rằng đất nước chúng ta có thể nên hữu dụng trong các sứ vụ thừa sai trên. Các người Bồ Đào Nha lại không được người khác kính nể lắm. Người ta chỉ ca tụng những ai xứng đáng mà thôi. Chúng tôi hết ḷng khen ngợi các cha người Pháp (7). Điều khiến các cha rất được quư mến nơi các xứ này là ở hai nhân đức vô cùng cần trong các sứ vụ thừa sai: sự kiên nhẫn và đạo đức hăm ḿnh. Hai nhân đức trên không những cần cho các thợ Phúc Âm mà c̣n cần để sống giữa các người ngoại giáo, giúp chống trả hai cám dỗ thường gặp là ở không và buông thả. Ở không v́ việc hoán cải người dân ngoại gặp khó khăn, người ta nản chí thích t́m nghỉ ngơi hơn là làm những việc mà họ nghĩ là vô ích hoặc đi làm những việc khác. Buông thá hay là kệ mặc cuộc sống nếu ḿnh không chuyên chú canh chừng, ví dụ về đời sống các dân ngoại là dân chỉ biết hành động theo bản tính tự nhiên và theo luật tham lam của cải thế gian. Ḥng tránh khỏi hai cái nguy hiển trên, ngay tự ban đầu ḿnh cần chuẩn bị việc tông đồ và quyết tâm không bao giờ bỏ việc thực tập hy sinh hăm ḿnh Kitô giáo, nhờ đó ḿnh mới giữ được các nhân đức.

Với mục tiêu như trên, ngay lúc đến vùng Ấn Độ Dương, hăy nghĩ ngay rằng ḿnh vào trong một cái xứ sở mà không khí mang nặng một quyền lực lạ thường để làm hư hỏng các tinh thần bằng cách truyền nhiễm gương mù gương xấu. Và cũng không kém ích lợi khi ngay từ đầu hăy tập quen bỏ qua nhiều cái mà ở đây hay dùng nên đă thành công khai, như thường đi tắm rửa (8), đi dạo giữa đường hay đến nhà các ông lớn với đám đầy tớ theo hầu, ăn mặc bóng bẩy, hút sách suốt buổi cho đỡ buồn, hết giờ này tới giờ nọ lo uống trà ăn mứt, lúc nào miệng cũng nhai trầu theo kiểu người đời, và sau nữa c̣n lắm thứ thực hành khác không được chỉnh đốn nghiêm túc sẽ làm giảm niềm tin và ḷng quư trọng mà một người thợ Phúc Âm phải ǵn giữ. Đó là điều tôi có ư nói qua để chỉ dẫn cho những ai sẽ được Chúa gọi làm việc tại các vùng Đông Phương này.

Tôi xin kết thúc chương này bằng hai ư kiến cho kẻ du hành, tôi chỉ chủ yếu muốn cái ích lợi thôi.

Cái thứ nhất liên quan đến chuyện đổi vàng: quăng 30 «xôn» một quan tiền «pistole» Tây Ban Nha, ở Xiêm La thấp hơn mọi nơi khác tại vùng Ấn Độ Dương. Người ta có lư khi nói rằng càng tiến tới th́ giá vàng càng hạ, hoặc bên xứ Đàng Trong hoặc bên xứ Đàng Ngoài, bởi v́ người ta đem vàng từ Trung Hoa và từ Manilla sang Xiêm La và các xứ khác. Bởi vậy, phải đổi hết những ǵ là vàng tại Ấn Độ sang tiền bằng bạc bản xứ, bạc này cũng tinh ṛng như bạc mang nhăn hiệu tại Paris (9). Từ chỗ đó, khi vào tiệm bạc nào đó, người ta cứ việc, cân đổi cân, tiền bằng bạc thay cho đồ bằng bạc. Tại Masulpatan cũng có thứ bạc của Xiêm La, cùng chất ṛng như bạc của các vùng Ấn Độ Dương, mà không phải trả thêm ǵ khi đổi. Nên để ư đừng bỏ lỡ cơ hội này, v́ tại Xiêm La th́ thường phải trả 5% mỗi lần đổi lấy bạc của Ấn Độ, là thứ cũng y như bạc của Xiêm La.

Cái thứ hai liên quan tới chuyện di chuyển mà ta có thể thực hiện trong các khu vực này theo đường các người Anh quốc. Hằng năm, họ vẫn gửi thẳng các tàu bè của họ đến Bantan, rồi từ đó đến Cam Bốt là nơi họ đă lập một thương điếm vào năm 1662. Từ chỗ này, người ta sẽ gặp nhiều dịp để đi tới xứ Đàng Trong và nhiều nơi khác nữa. Khi không có tàu Anh quốc đi Bantan, người ta luôn luôn t́m được tàu đi Achem; rồi từ Achem, không bao giờ thiếu dịp đi Cam Bốt mà hiện giờ là một tỉnh của xứ Đàng Trong. Từ Achem, c̣n có tàu đi các cảng khác trên bờ biển Á Châu. Thường cũng gặp được tại Bantan, tàu bè đi thẳng tới Trung Hoa. Người ta cũng có thể t́m tàu Hoà Lan và hy vọng vào cái tử tế của quư ngài nước này, miễn là phải thuyết phục cho họ hiểu là ḿnh đi Trung Hoa hoàn toàn vô vị lợi, không t́m buôn bán, không muốn làm giầu, nhưng đúng hơn là để c̣n nghèo đi, tiêu tiền của và sinh mạng v́ phần rỗi các linh hồn và chỉ v́ yêu mến Chúa mà thôi.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 16

Đức cha Beryte khởi hành tại Xiêm La và xuống tàu đi Trung Hoa

 

Đức cha Beryte quyết định sớm sang tới Trung Hoa: sau khi ngài từ giă các người Đàng Trong và sau khi sắp đặt chu đáo nhất có thể cho Giáo Hội phôi sinh của họ tại Xiêm La, ngày thứ 12 tháng Bảy, ngài xuống thuyền trên sông và ngày thứ 17 th́ ra tới tàu ngoài cửa khẩu, cách xa bến cảng khoảng 2 dặm. Ngày thứ 21, tàu căng buồm.

Gió thuận, tàu đi êm xuôi tới đêm ngày thứ 30. Nhưng khi quay sang độ thứ 11 là nơi biển Trung Hoa và biển Cam Bốt giao nhau, tàu gặp những luồng nước cực mạnh và cơn gió thổi ngược. Chưa đầy một khắc đồng hồ, người ta đă mất hy vọng thoát được nguy cơ: mọi cánh buồm đều được hạ xuống, mọi thứ không cần đều bị quăng ra biển để làm nhẹ đỡ tàu. Tuy vậy, dù cách nào đi nữa, người ta đều xét là đă hết phương thế thoát khỏi cơn gian nan khốc liệt. Cái khiến cho ḷng càng thêm hoảng sợ là, sau khi buông thả tàu nương nhượng gió biển, tàu bị đưa xa bờ một cách phũ phàng vào một nơi đầy nguy hiểm. Và sau khi làm hết những ǵ có thể được, người ta nghĩ không c̣n thế nào hơn là để mặc tàu trôi theo chiều gió biết đâu sự thể sẽ thay đổi. Quyết định như vậy, suốt một ngày và hai đêm trong ḷng biển động điên cuồng liên tục, con tàu dạt về hướng đất liền. Tàu đă bị vào nước, tưởng vỡ ra ngay được bất kỳ lúc nào.

Suốt thời gian ấy, các thừa sai phải bận lo giải tội và yên ủi các Kitô hữu có mặt trên tàu. C̣n riêng họ, các thừa sai đặt ḿnh suy niệm và cố gắng lợi dụng một dịp may không phải ngày nào cũng gặp được, tựa như lúc nh́n thấy cái chết trước mắt, chẳng c̣n chút hy vọng nơi người phàm. Vào những lúc thật hạnh phúc đó, các thừa sai cảm nghiệm được cái trận chiến giữa phần thượng đẳng và phần hạ đẳng của linh hồn ḿnh (1). Nếu cái cuồng động bên ngoài có lớn v́ cơn thịnh nộ của băo biển, th́ cái cuồng động bên trong cũng không kém dữ dội v́ cái đau đớn nơi con người xác thịt luôn luôn muốn được sống mà lại thấy ḿnh đang kế cận cái chết. Cũng chính vào những lúc đó, con người thiêng liêng nên giống Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta và là mẫu mực của con người thiêng liêng, khi Ngài tự tâm ḿnh hy sinh tất cả những ǵ là của Ngài để làm vui ḷng Thiên Chúa Cha là Đấng nắm sinh mệnh các tạo vật cũng như muôn triều sóng biển.

Biển vẫn động điên cuồng, chẳng mấy chốc đă đưa tàu vào trong đất liền. Người ta ḍ thấy đáy biển, rồi buông neo. Nhưng chỗ ấy, biển quá tàn khốc và sóng biển quá mạnh nên người ta sợ là tàu vỡ thành mảnh vụn. Người ta phải cho ngay 12 người đi xà lúp vào bờ xin các làng mạc gần đó ra giúp đỡ để xuống hàng và người một cách mau lẹ mà bỏ mặc tàu cho sóng biển hành hung. Ư kiến trên xem ra là ư kiến phải theo, nhưng vô ích, v́ chiếc xà lúp vừa vào tới bờ th́ đă bị bể tan. Trong nỗi đó, 12 người trên thấy ḿnh không c̣n có thể báo tin ra được cho tàu, cũng không đem được trợ giúp như mong đợi, bè ra đi báo tin về Xiêm La. Ba ngày trôi qua không c̣n biết ǵ về 12 người trên, dân trên tàu nghĩ là nhóm người ấy đă bỏ rơi họ, sung sướng v́ thoát ra được khỏi tàu trong t́nh trạng này.

Trong nỗi cùng cực và nước trên tàu đă bắt đầu cạn, người ta gỡ ván sườn tàu ra làm chiếc đ̣ thứ hai; làm xong, ông thuyền trưởng cùng một trong các thừa sai và năm người khác, dù với giá nào bất kể, đă chèo đ̣ vào bờ t́m cấp cứu. May mắn, họ gặp được bốn hay năm người dân Đàng Trong mà hai là Kitô hữu. Vừa nhận ra người thừa sai mà họ đă thấy ở Xiêm La, họ liền bái phục dưới chân ngài. Hay tin đức cha Beryte c̣n trên con tàu, ba người trong họ liền lo ra đưa ngài vào bằng một chiếc thuyền nhỏ. Họ đă làm công việc ấy với một ḷng cao thượng là cái đặc biệt riêng của người dân xứ họ (2). Ra được 2 dặm ngoài biển và chỉ c̣n cách tàu 1 dặm, th́ một cơn băo nổi lên dữ tợn khiến họ không những phải bỏ thuyền mà thuyền c̣n bị đánh tan tành và họ chạm chân lại đất liền ngay sau đó.

Nh́n việc xảy ra, người ta bắt đầu mất hẳn hy vọng: chẳng thấy một ai (ra cứu), băo tố chẳng bớt th́ chớ lại càng thêm cuồng nộ, đoàn thuyền viên ră rời v́ sợ và v́ cơn khát hành hạ. Nhưng ḷng nhân từ Chúa không bỏ rơi ai kêu cầu Ngài với ḷng thành tín hiếu nghĩa: thấy nỗi khốn cùng mà con tàu phải chịu v́ chỉ thiếu một chút nước ngọt, Ngài cho hai cơn mưa lớn đổ nước dư đủ cho họ. Rồi vài hôm sau, 2 con thuyền từ Xiêm La đến cứu họ, nhờ được tin của những người đă rời tàu bằng chuyến xà lúp đầu tiên. Hai ngày trước đó, ông thuyền trưởng, đă gặp quan toàn quyền của các làng mạc trên bờ, cũng trở lại tàu với người thừa sai đă theo ông ta vào bờ. Nhờ đó, đức cha Beryte rời được tàu trở lại Xiêm La, lần thứ hai, vào ngày thứ 15 tháng Chín.

Vừa tới nơi, đức cha liền xuống khu người Đàng Trong và gặp thấy được giáo sĩ mà ngài đă sai đi Tenasserim. Đức cha Beryte đă mất 65 ngày đi trên biển Trung Hoa băo tố. Biết tin rằng đức cha Heliopolis đă đến gần Tenasserim, ngài sai hai người đi đón với giấy tờ thông hành cần thiết để tạo dễ dàng cho đường đức cha đi. Ngài quyết định chờ đức cha Heliopolis tại Xiêm La để, họp lại với nhau, các ngài sẽ có thể xem xét và sắp đặt chu đáo hơn việc hướng dẫn các sứ vụ thừa sai của các ngài (3). Mặt khác, cần phải chờ đợi v́ thời đi biển năm nay đă qua rồi.

Phần c̣n lại, đức cha Beryte rút ra bài học không phải là nhỏ sau lần đi biển bên cạnh 40 người Bồ Đào Nha: ngài hiểu là do vài chỉ thị nào đó từ xứ Bồ Đào Nha đưa ra, người Bồ Đào Nha tại Xiêm La không thèm nh́n ngài với con mắt thiện cảm. Ư đồ của họ lại c̣n đi xa hơn nữa đến nỗi họ lập thành một phe đảng với nhau để triệt hạ ngài mà ngài đă được tin báo cho hay. Đức cha đă phải bỏ khu của họ mà t́m nơi cư trú an toàn tránh ư đồ tham hiểm của họ, tại gần khu người Ḥa Lan (4) để tránh ư đồ nham hiểm của họ.

Đức cha đă có thể phải lo sợ khi xuống con tàu mà thấy nhiều kẻ thù địch dù họ không phải là chủ chiếc tàu. Nhưng tin tưởng vào Chúa và không biết hết được những ǵ xảy ra, ngài không có đối đầu với họ, lại t́m phục vụ họ bằng cách cho họ hiểu cái ư hướng trong sáng nơi các giáo sĩ Pháp, và hiểu rằng không có cớ nào và không thể dưới chiêu bài lợi ích quốc gia mà người ta lại cưu mang ư đồ ác độc cho công việc của các giáo sĩ Pháp. Cái khiến đă khuất phục được họ là việc lo lắng (của các giáo sĩ Pháp) sáng chiều, ngoài lúc băo tố ra, xướng kinh cầu nguyện, ngày lễ th́ dâng Thánh lễ, dẫn giáo lư, giảng dạy bằng tiếng của họ, nhân từ nói chuyện với họ về những sự cho phần rỗi đời đời. Những việc nhỏ bé trên cũng đủ để hoán cải họ, từ thù nghịch sang bạn hữu, trở nên dễ đối xử được. Tất cả đều xưng tội và rước lễ; lắm kẻ chịu quá một lần. Chính vào lúc đó, họ đă tuyên bố công khai ra t́nh thế trong đó họ đă âm mưu chống lại bản thân đức cha Beryte. Họ đă tỏ ra hối tiếc, hứa là nếu trở lại được Xiêm La họ sẽ gợi ư kiến khác cho người đồng hương của họ. Đó cũng là điều chúng tôi trông đợi nơi ḷng bác ái và công b́nh của họ.

Trở lại Xiêm La, đức cha Beryte t́m được an ủi khi nh́n thấy đoàn chiên của ngài đă tăng thêm nhiều người gốc Đàng Trong khác. Từ lúc đấy, ngài lại tiếp tục vun xới Giáo Hội này với nhiều ơn trên ban xuống.

 

&&&

 

 

<<<<<

Chương 17

Trở lại Âu Châu bằng đường biển.

Cái chết của giám mục Metellopolis .

Tới Luân Đôn.

 

Theo lệnh của đức cha Beryte và v́ những lư do mà tôi đă tŕnh bày, tôi sẵn sàng trở lại Âu Châu. Với tôi, đó là cả một chuyện đau ḷng thấy ḿnh phải rời xa chốn sứ vụ thừa sai của chúng tôi, nơi mà tôi thấy ḿnh đă thật gần gũi và đă cảm nhận được cái dịu dàng ngọt ngào trong sứ vụ thừa sai này. Tuy nhiên tôi không nghĩ là ḿnh sẽ rời xa thực sự, v́ mục đích chuyến trở lại Âu Châu của tôi là cho lợi ích và phục vụ sứ vụ thừa sai này mà thôi. Từ khi tôi lên đường trở lại, tôi đă phải hy sinh cố gắng trong ḷng để tuân phục mệnh lệnh đă truyền cho tôi. Tôi cảm thấy như tôi không c̣n là chính tôi nữa và tôi như bị bỏ rơi ngay tại quê hương ḿnh. Tôi chỉ biết tự an ủi rằng sẽ sớm trở về (nơi sứ vụ thừa sai) và với ư cố gắng, trong thời gian tôi c̣n ở Âu Châu, làm cho người ta hiểu tầm quan trọng của sứ vụ chúng tôi hầu kêu gọi được nhiều thợ thừa sai góp phần vào đó.

Tôi rời Xiêm La ngày 14 tháng Mười, khoảng 8 giờ tối, để ra đến một con tàu người Anh quốc sẽ căng buồn sang Madras, thị trấn thuộc Hăng hải thương Anh quốc. Tôi mất 24 giờ để đi hết 35 dặm trên sông Xiêm La, gặp được con tàu đă lên buồm ngoài cửa khẩu. Con tàu chưa dám khởi hành v́ gặp 3 con tàu người Ḥa Lan trang bị vũ khí chiến đấu đang lên ngược ḍng sông Xiêm La. Hai người Bồ Đào Nha ở cùng với tôi gặp thấy vậy th́ quá sợ hăi, vội vàng lấy hành lư ra khỏi tàu người Anh quốc mà họ cho là sắp sửa bị rơi vào tay người Ḥa Lan. Một tên đầy tớ mà tôi lấy đem theo tôi th́ vừa trông thấy biển hắn đă bỏ tôi rồi; do đó, tôi là người duy nhất trong tàu Anh quốc này theo đạo (Công giáo) và duy nhất có chức vụ (linh mục). Ông thuyền trưởng lúc ấy chưa biết rơ phải hành xử ra sao, phần th́ không thể rời chuyến đi lại, phần th́ không dám lộ mặt ra trước người Ḥa Lan v́ chưa biết ư đồ của họ ra sao. Tuy vậy, ông vẫn tiến tới phía con tàu Ḥa Lan lớn nhất và chào bằng nhiều phát đại bác. Ông thuyền trưởng được họ cho hay là người Ḥa Lan đến đó để buộc nhà vua Xiêm La giải quyết một vài điều phỉ báng mà họ nói là họ đă phải chịu. May mắn cho tôi là gặp được trên những con tàu Ḥa Lan này một người bạn. Người bạn tôi đă giúp tôi bằng một lá thư gửi gắm cho quan toàn quyền tại Malacca. Cái bí mật trong những cuộc hành tŕnh này là đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội để gây bạn bè, người ta luôn luôn có dịp cần được phục vụ và giúp đỡ.

Ngày 4 tháng Mười Một, chúng tôi gặp 3 người trên một con đ̣ tồi tệ, họ là những kẻ thoát khỏi tai nạn đắm tàu, trôi theo sóng biển, không hướng không lương thực. Người ta đón họ lên tàu, và chắc hẳn như thế là người ta đă cứu mạng sống cho những kẻ bất hạnh này.

Ngày 13 (trong tháng), chúng tôi đến trước eo biển Sincapur và Petra-Banca (1). V́ gió ngược nên măi đến ngày 20 chúng tôi mới qua khỏi đó, vào cảng Malacca vào chiều ngày 27.

Vào lúc ấy, người ta thông báo ḥa b́nh đă được kư kết giữa nhà vua Bồ Đào Nha và giới cầm quyền Ḥa Lan. Hồi trước tại Malacca cũng như các vùng lân cận, có rất nhiều người Công giáo. Khi người Ḥa Lan làm chủ nơi này th́ họ đuổi đi gần hết, chỉ c̣n lại chưa tới 5 hoặc 6 trăm người, lại không được một chút tự do hành đạo và chẳng nhận được giúp đỡ tinh thần nào nữa.

Ít lâu trước khi đến Malacca, chúng tôi gặp một đội tàu Ḥa Lan từ Nhật Bản trở lại. Lúc ra đi, 8 tàu th́ 5 tới nơi, c̣n 3 bị đắm; lúc trở lại, 5 tàu th́ 2 bị nạn; và 3 tàu c̣n lại th́ các cột buồm đều găy nát tơi tả. Tuy thế, người ta chắc chắn với chúng tôi rằng vẫn c̣n khá nhiều của cải trên 3 con tàu đó mà bù đắp vào thiệt hại mà đội tàu trên phải chịu, để khỏi hối tiếc chuyến đi Nhật Bản bao lâu người ta c̣n t́m được kho tàng trên đảo đó.

Ngày 6 tháng Giêng, tàu chúng tôi vào cảng Massulpatan. Tôi đi chào ngài nhân viên (Hăng hải thương) Anh quốc. Ông tiếp tôi rất lịch thiệp, mặc dù các ông người Anh quốc này đă khó chịu khi tiếp đức cha Heliopolis mà cách đây ít lâu đă đến ban Phép Thêm Sức cho vài gia đ́nh Công giáo cư ngụ kế cận thị trấn Madras. Chúng tôi tới được thị trấn Madras 4 hoặc 5 hôm sau đó theo đường biển. Lên bờ, tôi gặp được cha Ephrem de Nevers là người được tin tôi đến, đă ra trước đón sẵn. Ngài Dom Edouart là quan toàn quyền của người Anh quốc tại Madras, đă tiếp tôi ân cần nhất có thể. Biết ư định của tôi muốn trở về Pháp, ông đă hứa với tôi là sẽ lo chuyến đi cho tôi với các thuyền trưởng của đội tàu biển người Anh đang sắp sửa trở lại Âu Châu.

Tại Madras, tôi hay được hai tin mà một tin đă làm tôi hết sức vui mừng: đó là tin cuộc hành tŕnh b́nh an của đức cha Heliopolis và ngài đă rời Massulpatan đi Tenasserim. Tôi đoán là chẳng mấy chốc nữa, ngài sẽ đoàn tụ được với đức cha Beryte đang chờ đợi ngài tại Xiêm La và đă phải hoăn việc đi Trung Hoa lại để mong gặp ngài cùng các giáo sĩ theo ngài (2).

Một tin khác đă khiến ḷng tôi đau đớn khôn cùng là tin đức cha Metellopolis qua đời, tin đến được trấn Palacol, xa Massulpatan hai ngày đường: cách đây khoảng một năm, v́ đức cha bị bệnh tại Massulpatan, người ta đă đem ngài tới trấn này để ông Montval săn sóc. Ông Montval là y sĩ giải phẫu người Pháp đang phục vụ cho các người trong Hăng Ḥa Lan. Đức cha đă nhận được trọn mọi sự săn sóc mà người ta có thể trông chờ nơi một y sĩ người Pháp, lại là một người rất lương thiện và là một người Công giáo nhiệt thành. Nhưng cơn bệnh của ngài không c̣n cần đến thuốc thang nữa: lúc ngài đến Palacol, ngài bị sốt li b́ và thổ ra máu khiến sức lực kiệt quệ, t́nh trạng thập tử nhất sinh. Ngài chỉ c̣n chuẩn bị chết và kết thúc đời ḿnh như của lễ hiến dâng mà ngài đă bắt đầu từ khi dấn thân vào công cuộc ra đi đến xứ Trung Hoa. Người ta có thể chắc chắn rằng ḷng nhiệt thành đă thiêu rụi con người của đức cha: sự nhẫn nhục chịu khó để đi từ Paris đến bờ biển Coromandel này ḍng dă gần một năm trời nay lại thêm một đời sống khắc khổ nơi ngài, đă là nguyên nhân cái chết của ngài.

Cái hay của hành tŕnh qua đường biển Địa Trung Hải, Thổ Nhĩ Kỳ và vùng Ấn Độ Dương không phải là đi thật nhanh, nhưng là đi đều đặn, biết dừng chân từng chặng để nghỉ mệt. Con đường này rất đỗi khó nhọc và mới lạ đối với những ai rời Âu Châu mà đến, và có thể làm kiệt quệ những sức khoẻ dẻo dai nhất nếu ḿnh không biết ǵn giữ sức ḿnh.

Đức cha Metelloplis qua đời ngày 16 tháng Tám năm 1662, sau hai mươi ngày bị bệnh, và một năm sau khi rời nước Pháp. Ngài được an táng tại Palacol. Ngài đă lănh nhận các Bí Tích sau cùng từ tay một trong các giáo sĩ theo ngài. Giáo sĩ này đă chứng thực rằng đức cha đă trung kiên và nhẫn nhục, rất đạo đức, khi biết tin ḿnh sắp qua đời. Hơn nữa, lại qua đời giữa vùng đất xa lạ, nơi ngài thấy ḿnh không c̣n biết trông cậy vào sự cứu trợ nào nữa nơi người phàm trần. Ngài vẫn thường hay lập lại luôn rằng chẳng có ǵ phải phàn nàn khi chết đi sau cả một đời cố gắng phụng sự Thiên Chúa. Suốt thời kỳ bệnh hoạn, ngài không bao giờ bỏ dâng Thánh lễ, trừ ra ngày cuối cùng, ngài chịu Lễ vào sáng sớm và qua đời lúc sáu giờ, mắt nh́n thẳng lên trời, tay cầm tượng Chịu Nạn và tâm hồn ch́m vào trong sự an b́nh, thanh tịnh tuyệt vời. (Trong lúc hấp hối), ngài thỉnh thoảng lại nói: «Thực là tốt thay được phụng sự Thiên Chúa khi ta c̣n có thể». Người ta đă bảo rằng trong khi t́nh yêu cực thánh xâm chiến ngài đến tột cùng th́ con người ngài dịu dàng rời khỏi chính ḿnh để buông vào trái tim của Đấng đă tạo dựng nên ngài. Thật khó mà diễn tả hết cái trầm tĩnh tinh thần mà ngài giữ được cho đến hơi thở cuối cùng. Ngài thấy giờ của ngài đang đến, sức lực của ngài bỗng hụt hẫng v́ cơn đau sốt lạnh và v́ thổ ra máu. «Mọi sự diễn ra tốt đẹp, ngài nói, Vĩnh Cửu đă kề bên, chúng ta sẽ măi măi là như chúng ta đă là trong cuộc đời này của chúng ta».

Ngài được 31 tuổi, làm linh mục lúc 23 tuổi với phép chuẩn của Toà Thánh (3) để điều hành nhà xứ chính tại thành phố Aix en Provence. Trong việc điều hành ấy, ngài đă tỏ ra một nhân đức cẩn thận hiếm có, một ḷng đạo đức gương mẫu với ḷng sốt mến không mỏi mệt v́ phần rỗi và v́ sự tiến bộ của các linh hồn dưới sự hướng dẫn của ngài.

Người ta có thể xét cái thiệt hại to lớn của chúng tôi qua cái công trạng to lớn của vị giám mục nhân đức này: trong chức bậc rất cao sang, ngài có các nhân đức cần thiết để chu toàn hiệu quả phẩm chức ḿnh. Toà Thánh đă tôn dương ngài khi đặt ngài làm giám mục đầu tiên của kinh thành Bắc Kinh và tỉnh Nam Trung Hoa là tỉnh lớn nhất của đất nước này, nơi có triều đ́nh nhà vua, nơi giới quư tộc và các quan lại quốc gia thường cư ngụ, và là nơi mà Kitô giáo phát triển nhiều nhất.

V́ những nguyên nhân mà chúng ta phải tôn kính, Chúa đă gọi đầy tớ Ngài về với Ngài và ân thưởng cho người đầy tớ ấy giữa lúc cuộc hành tŕnh. Và cũng là để tôi luyện ḷng tin tưởng của những kẻ khác và để giúp họ phó thác vào Đấng Quan Pḥng cách hoàn hảo, tùng phục, hơn là dùng cái chết này mà làm nhát đảm những người thợ (thừa sai) nhiệt thành. (Kinh nghiệm này) c̣n giúp cho (những kẻ khác) biết sống theo ơn gọi của ḿnh, mà đặc biệt nhờ đó, họ tiến bộ trên hết mọi sự, luôn sẵn ḷng chết cho danh Chúa Giêsu Kitô và v́ sự rỗi các linh hồn mà Chúa đă mua chuộc bằng mạng sống và giá máu đổ ra.

Vừa tới Coromandel, đức cha Heliopolis liền đến Palacol, xin phép người Ḥa Lan - v́ trấn Palacol thuộc quyền của họ - đem xác đức cha Metellopolis về Massulpatan, an táng trong một ngôi thánh đường chờ có dịp sẽ đem cải táng trong một thành phố Công giáo.

Nhưng giờ phải trở lại với cuộc hành tŕnh của chúng tôi. Tôi không có ư xen vào nơi đây những ǵ có thể bàn về nhân đức của vị giám mục này. Để làm việc ấy, phải có nguyên một kư sự riêng, nhưng việc ấy xin dành cho người nào đó có khả năng hơn tôi để bàn bạc cho xứng đáng.

Dù quan toàn quyền Edouart có tốt bụng mấy đi nữa, ông vẫn gặp cái khó chịu nơi các thuyền trưởng người Anh muốn tôi phải đưa tiền để trả cái ơn huệ mà tôi xin là được trở về Âu Châu với họ. Cuối cùng, tôi thỏa thuận với một thuyền trưởng cái giá là 70 quan tiền «pagode», trị giá 140 quan tiền ê-cu của chúng ta. Giờ khởi hành thật vội vàng khiến tôi chỉ c̣n có nửa ngày trời để lo lương thực cần thiết cho cuộc đi biển thật dài, chủ yếu là cho thời gian Mùa Chay sắp đến mà tôi sẽ sống một ḿnh theo tôn giáo của tôi, giữa đoàn thuyền viên tất cả đều là tín hữu đạo Tin Lành. Phải phó ḿnh trong tay Chúa. Lúc khởi hành ra đi, tôi nhận được rất nhiều sự ân cần của các người Bồ Đào Nha. Họ tiễn tôi ra bến và nh́n theo chiếc xà lúp chở tôi ra tàu cho tới khi khất dạng.

Tàu căng buồm vào nửa đêm. Và ngày 28 tháng Chạp, chúng tôi đi ngang, trông thấy rặng núi đảo Zeilan, bên tay phải chúng tôi. Sau khi bị tŕ trệ khá lâu v́ các gịng nước mà chúng tôi khó ḷng giải thích nguyên nhân, chúng tôi qua được giới hạn ngày 5 tháng Giêng. Tàu phải dừng lại v́ trời lặng gió. Mặc dù người ta gặp được gió ở hướng độ 14, (phần chúng tôi), chúng tôi chỉ t́m thấy được gió ở hướng độ 20, điều mà các thuỷ thủ của chúng tôi quả quyết là không bao giờ xảy ra. Do vậy nên chúng tôi hết trông đợi qua được Mũi Hy Vọng và sợ phải qua mùa đông tại đảo Madagascar. Từ đó, người ta bắt đầu tiết kiệm lương thực, nhất là nước ngọt. Sau cùng, chúng tôi rớt vào trong t́nh trạng là chúng tôi chỉ có thể qua được Mũi Hy Vọng chậm nhất vào đầu tháng Tư, như thế chúng tôi c̣n lại đúng 30 ngày để đi được một tuyến đường 1500 dặm biển, theo tính toán chính xác của các hoa tiêu của chúng tôi.

Tuy nhiên, ngoài mọi sự trông đợi của chúng tôi, ngày 8 tháng Tư, trời đổ mưa như Chúa đă quan pḥng, làm gió thuận đưa tàu đi thẳng một đường; mỗi ngày tàu vượt nhiều dặm biển, cứ tựa như mọi sự đều được dồn lại để cuộc hải hành được thuận lợi nhất.

Ngày 7 tháng Tư, chúng tôi qua Mũi Hy Vọng và bắt đầu vẽ đường về hướng đảo Sainte-Hélène. Chúng tôi nhận ra đảo vào chiều ngày 26, nhưng không dám tới gần v́ sợ trời tối. Hôm sau, chúng tôi tới nơi, gặp được 3 con tàu Anh quốc đă chờ đợi chúng tôi khá lâu ở đó để cùng đi chung với nhau cho trọn hải tŕnh. Bởi v́ người ta không biết ǵ về hiện trạng tại Âu Châu và sợ có chiến tranh với những kẻ mà chúng tôi đă để yên lúc mới khởi hành (4), các tàu người Anh thường có thói quen tụ hợp lại tại đảo này mà hiện nay họ làm chủ. Với tất cả các người vượt biển vùng Ấn Độ Dương th́ cũng đều như vậy cả.

Đảo Sainte-Hélène là một tảng đá, chu vi chừng 60 ngàn dặm Anh, tức 20 dặm Pháp. Mặt đảo nào cũng không thể cặp tàu vào được, trừ ra hai chỗ mà tảng đá mở ra làm thành hai thung lũng, nước ngọt chảy liên tục. Trong thung lũng lớn nhất, là một pháo đài; trong thung lũng nhỏ, là một đồn trấn nhỏ với vài khẩu đại bác. Trên cao những tảng đá, có vài vùng b́nh nguyên, đất rất màu mỡ, cung cấp cỏ và rau cho người sống trên đảo - quăng chừng 50 người, đàn ông và đàn bà, tất cả đều là người Anh - cũng như cho các con tàu từ Ấn Độ trở về cặp vào đó lấy nước. Cái ph́ nhiêu và hiền lành của ḥn đảo là cả một sự diệu kỳ: đất chỉ sâu một hay hai bộ phủ trên mặt đá, thế mà người ta đă vun trồng gần như được đủ các loại hạt giống của đất Âu Châu. Dân đảo, dù bị cắt đứt với mọi thương mại của các vùng đất khác v́ biển cả bao la, lại sống nhàn hạ ở đây và vui với những ǵ đất Âu Châu đem đến cho họ.

Đảo có nhiều chanh và nhiều dê, mà người Bồ Đào Nha khi trước c̣n là chủ nền hải thương Ấn Độ Dương đă đem tới, và từ đó đă sinh xôi nẩy nở rất nhiều. Đó là một trong các thói thực hành của họ là chuyên chở khắp nơi các giống thú có ích lợi cho con người để c̣n trợ giúp cho hải đội của họ. Cái khổ là họ c̣n để lại cả chó nữa: chúng sinh sản ra, thành chó hoang, phá quấy người Anh không ít; nhưng cũng tạo dịp cho người Anh tổ chức đi săn chơi vui giữa cái cô đơn trên đảo. Dân đảo chỉ thấy được bóng người Âu Châu một năm một lần khi đội tàu Hăng hải thương Anh quốc từ Ấn Độ trở lại, hay, khi có những con tàu nào khác v́ băo, v́ gió hay v́ cần lấy nước ngọt, phải ghé vào đó.

Việc nghỉ chân (trên đảo) ấy thật vô cùng thú vị mà người ta không thể nào tưởng tượng ra được: sau ba tháng ṛng cực nhọc trên tàu biển, nay được đặt chân lên đất liền, được đi lại, được uống nước trong lành, được ăn trái cây tươi và được hưởng canh rau mới hái trong vườn ra. Chính v́ lẽ đó mà người Anh đă chiếm ḥn đảo này, v́ cái thuận tiện của đảo nằm giữa đại dương và lại gần như ḥn đảo duy nhất mà ta có thể nghỉ mát thỏa thích.

Sau khi chúng tôi đă lấy nước dự liệu trên đảo Sainte-Hélène, chúng tôi lại lên tàu đến đảo Ascension, và đến nơi ngày 5 tháng Năm và gặp được 2 con tàu Anh quốc đang chờ chúng tôi ở đó từ hai hôm trước.

Đảo Ascension là mảnh đất cằn cỗi, khô khan và cháy bỏng, chu vi là 70 dặm Anh, đầy những núi cao: có một ngọn núi cao tận tầng mây và luôn luôn có sương mù bao phủ. Không ai ở trên đảo này, đảo chẳng có ǵ là thuận tiện cho đời sống, không cây cối không nước ngọt. Tàu bè có ghé vào chốn này cũng chỉ là để đi săn rùa biển. Săn rùa biển vào muà này th́ thật tuyệt vời: giống thú này lên đất liền để đẻ trứng. Suốt đêm, chúng lên khỏi biển và tràn khắp bờ biển như các đoàn lính đổ bộ. Có những con nặng đến 300 cân (5), con khác th́ 500 cân. Chúng chỉ lên khỏi biển vào ban đêm, chúng dấu trứng trong những cái hố mà chúng đào thật sâu trong cát, rồi sau đó trở lui lại biển.

Cái bản năng của giống thú này thực là lạ lùng: v́ chúng đẻ rất nhiều trứng, chúng khó ḷng mà đẻ dưới nước được, v́ phần th́ cá mú sẽ không bỏ qua, phần khác th́ nước lại lạnh. Thiên nhiên đă dạy chúng biết t́m đến nơi an toàn là ḥn đảo hoang vu này, có cát ấm, đặc biệt cho việc nở trứng. Rùa con vừa ra khỏi vỏ trứng th́ chúng đă t́m ngay đường xuống biển v́ sợ chim chóc thường đến tấn công rất nhiều rùa con.

Để bắt được những con rùa lớn, các thủy thủ vào khoảng nửa đêm đến nấp sau các tảng đá, rồi ra hiệu mà chạy ùa ra cùng một lúc, nhanh nhất có thể, khi các con rùa vừa lên khỏi biển hoặc lúc chúng đang bận việc riêng. Họ lật ngửa chúng lên và kệ mặc chúng như thế cho tới hôm sau, bởi v́ giống rùa biển nặng nề ấy không thể tự chúng lật ngược ḿnh lại được. Thịt rùa khá ngon và bổ cho sức khỏe, cứ như là ăn thịt ḅ non. Chúng sống được tới ba mươi, bốn mươi ngày dưới tàu mà không cần phải nuôi, chỉ hơi gầy đi vào những ngày cuối. Các thủy thủ của chúng tôi trong một đêm duy nhất đă bắt được 170 con tất cả. Thường th́ người ta chỉ bắt đủ cho 20 ngày; hơn nữa, sau đó chúng chỉ ḅ loanh quanh và gây bất tiện.

Trên đảo này c̣n có nhiều dê do người Bồ Đào Nha trước đem tới, nhưng khó mà bắt được chúng v́ nhiều tảng đá người ta không thể leo lên được.

Từ đảo Ascension cho tới Anh quốc, hành tŕnh của chúng tôi luôn luôn tốt đẹp. Chỉ gặp có 3 tàu Ḥa Lan: hai đi qua Đông Ấn, một đi từ Guinée sang đảo Barbades chuyên chở nô lệ.

Đoàn tàu chúng tôi tới Luân Đôn ngày 20 tháng Bảy. Tôi ở Luân Đôn t́m thiết lập một vài liên lạc viên với vùng Ấn Độ Dương hầu chuyển đồ cần thiết cho các sứ vụ thừa sai chúng tôi. Chính ở đó mà tôi hay được dự đồ vĩ đại và cao cả mà người ta đang hoạch định bên Pháp về việc gầy dựng thương mại với vùng Ấn Độ Dương. Tôi xét là từ nay khỏi cần phải đi t́m vài cái thuận tiện nơi người nước ngoài nữa, khi mà tôi có thể trông chờ nơi Hăng hải thương mới, đă thiết lập tại Paris do lệnh truyền của đức vua về việc đi biển và thương giao với Ấn Độ Dương. Tôi đội ơn Chúa đă soi sáng công tŕnh tuyệt vời ấy cho hoàng thân cao cả (6). Bởi chưng, thành tựu này chẳng những sẽ là nguồn lợi ích cho nước nhà, mà c̣n là một phương tiện thuận lợi ḥng bành trướng đức tin tới mọi nơi hoàn cầu: chẳng có đất nước nào mà lại có nhiều thợ thừa sai nhiệt thành trong việc truyền bá Kitô giáo cho bằng nước Pháp.

Thật là tồi tệ nếu tôi không ngỏ ḷng biết ơn đối với thái độ quân tử của quư ngài người Anh quốc. Suốt cuộc vượt biển, họ đă đối xử tốt với tôi nên tôi nghĩ ḿnh có được những người bạn hiền mà trong đó có viên thuyền trưởng con tàu có tôi trên ấy. Ông đặc biệt nhân từ với tôi đến nỗi tôi không thể cám ơn sao cho đủ. Đó là một con người cao thượng nhất, tận t́nh nhất và chừng mực nhất mà người ta có thể gặp được giữa những người thuộc tín ngương này(7). Không những ông cho riêng tôi một căn buồng lớn trong tàu, lo lắng đặc biệt cho tôi, sai đầy tớ dẫn tôi đi thăm tàu mà đích thân ông lại c̣n đến hỏi xem tôi có cần sự ǵ chăng. Mặc dù ông không ưa lắm cái Mùa Chay Thánh của chúng ta v́ tôn giáo ông theo, ông vẫn lo cho tôi tôm cá suốt thời kỳ ấy, cho thả câu mà bắt cá (cho tôi) (8). Ông trừng phạt nghiêm khắc mọi chuyện thề thốt căi vả, chẳng ai thoát khỏi mà không chịu h́nh phạt; sớm chiều ông đều cho đọc kinh, mà chính ông xướng lên cao giọng. Vào những ngày Chúa Nhật, ông tụ họp mọi người lại, cầu nguyện suốt hơn hai giờ đồng hồ, và thay v́ bài giảng dạy th́ ông đọc hoặc cho đọc các bài giảng in sẵn mà ông đă mang theo trong mục đích này.

Các đức hạnh nơi vị thuyền trưởng cao thượng ấy đă khiến tôi đem ḷng yêu mến ông ta và ao ước lo cho phần linh hồn của ông, nên tôi mới vào chuyện bàn luận cùng ông về các sai phải trong đạo. Ban đầu, ông có vẻ thích nghe, nhưng ngay sau ấy th́ tôi nhận thấy ông không mấy hài ḷng nghe tôi nói, cứ chuyển sang đề tài khác, mỗi lần tôi muốn đào sâu các vấn đề mà rút tỉa ra cho ông thấy cái lầm lẫn của ông. Do đó, tôi chỉ nói chuyện với ông về những điều luân lư và phép tắc trong đời sống Kitô hữu mà ông lắng nghe, hài ḷng. Tôi thành tâm khấn cầu Chúa soi sáng cho ông nh́n thấy chân lư của Ngài và cho ông ơn trở lại đức tin thánh của chúng ta.

Lúc ở Luân Đôn, tôi đă vinh dự được giới thiệu lên bà hoàng mẫu của nhà vua Anh quốc. Bà đă có ḷng tốt nghe tôi kể về những sự kỳ lạ trong cuộc hành tŕnh của tôi. Tôi cũng được đặc ân gặp quận tước thành Yorc, ngài hỏi thăm tôi về hiện trạng bên Ấn Độ Dương và cho tôi hiểu cách thế trong việc ngoại giao và sự thể các xứ sở xa xôi nhất. Cuối cùng, sau khi cho tôi hưởng được ḷng tốt và dịu hiền của ngài mà ngài vẫn đối xử với mọi người được vinh dự gặp ngài, quận tước giới thiệu tôi lên nhà vua Anh quốc mà tôi cũng nhận được một thái độ không kém ân cần.

Tôi rời Luân Đôn hôm 6 tháng Tám và tôi cứ tưởng ḿnh đă chết ch́m trong lúc vượt biển từ Gravesinde đến Dieppe, trên hải tŕnh 12 giờ đồng hồ mà nguy hiểm tới tính mạng c̣n hơn cả hải tŕnh 10 tháng trời tôi vừa đi qua. Suốt hành tŕnh trên biển, Chúa đă thương cho tôi được sức khỏe bằng an, không phải chịu khó khăn nào đáng kể. Chuyện ấy cho thấy rằng những hải hành đường dài không có quá khó và quá nguy hiểm như những ai chưa có kinh nghiệm hay tưởng tượng ra. Nhưng phải nhận rằng việc lèo lái tốt của các thuyền trưởng và việc tiên liệu khôn ngoan của họ giữ phần quan hệ cho một chuyến đi biển an lành. Không một thủy thủ nào bị chết trên 6 con tàu thuộc hải đoàn của chúng tôi. Chúng tôi có thịt tươi, cá câu có sẵn, chẳng thiếu sự ǵ; và khi tới Luân Đôn, trên tàu vẫn c̣n gà vịt đem theo từ Anh quốc, sau khi đă đi suốt cuộc hải hành Ấn Độ Dương.

Tôi đă chú thích rằng một trong các nguyên do việc tôi trở lại Âu Châu là để tạo một cơ sở làm hậu thuẫn bền vững cho sứ vụ thừa sai mà chúng tôi thực hiện, nghĩ là chuyện sẽ hoàn toàn vô ích nếu không hy vọng có thể nâng đỡ và tiếp tục công tŕnh thừa sai ấy.

Tới Paris, tôi hay Đấng Quan Pḥng đă lo liệu cho cơ đồ ấy nhiều lợi thế: trong lúc các giám mục đang tiến trên hành tŕnh thừa sai th́ một vài giáo sĩ đă đứng ra lo lắng liên lạc, theo dơi công việc của các ngài, và đă lo liệu và được các chứng thư nhà vua cho phép mở một chủng viện. Chủng viện này có mục đích riêng là lo nhận và đào tạo các giáo sĩ được Chúa gọi vào việc lo phần cứu rỗi cho các dân ngoại (9). Các sứ vụ thừa sai chúng tôi cần trông chờ một sự trợ lực cao quư của cơ sở này, có được là nhờ hoàn toàn vào ḷng đạo đức của nhà vua và tâm hồn nhiệt thành của ngài với việc hoán cải dân ngoại giáo nơi các xứ mà người Pháp giao thương hoặc các nơi mà người Pháp sẽ lập nghiệp.

Đă từ lâu, chúng tôi dự trù dựng cơ sở này v́ lợi ích của việc truyền bá đức tin và thực cần kíp cho việc tồn tại của các sứ vụ thừa sai đă được trao phó cho các giám mục người Pháp. Đức cha Bernard de Sainte Thérèse, giám mục hiệu toà Babylone, đă đặt nền tảng và hoàn tất công tŕnh này bằng cách trao ban cho các ngôi nhà mà ngài đă xây dựng từ nhiều năm rồi trong mục tiêu giúp ích chung cho các sứ vụ thừa sai tại Đông Phương. Nhờ đó, ngôi chủng viện nói trên thành h́nh. Xin ḷng nhân lành của Chúa ban ơn cho cơ sở đạo đức này. Đối với vị giám mục hào hiệp ấy, không những Trung Hoa và các xứ sở Á Châu phải biết ơn, mà cả những sứ vụ thừa sai khác sẽ có thể được thành lập sau này ở các chốn khác trên địa cầu nữa.

Ngay khi đến Paris, tôi đă tŕnh bày ra diễn tiến cuộc hành tŕnh của chúng tôi cho những người đạo đức của thành phố lớn này, những người mà tôi biết là đă đóng góp rất nhiều vào những thành công trong sứ vụ thừa sai của chúng tôi. Tôi chẳng hề thấy ḷng nồng nhiệt của họ đối với công cuộc này bị nguội lạnh đi, trái lại tôi chúc tụng Chúa khi nh́n thấy ḷng kiên cương của họ trong việc trợ giúp nâng đỡ một công tŕnh rất đỗi khó khăn như vậy: mỗi ngày họ lại cho tôi thấy được những dấu chứng mới về đức tin của họ và về ḷng bác ái quả cảm và tinh tuyền của họ, ḷng bác ái đă thúc đẩy họ tiến tới.

Tôi gặp tại Paris mọi việc thuộc sứ vụ thừa sai chúng tôi trong t́nh trạng tốt đẹp nhất mà tôi đă có thể ước mơ. Chính v́ vậy tôi chỉ c̣n nghĩ tới việc lên đường đi Roma để sớm thông tin cho các vị hồng y trong Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin vốn giữ việc điều hành căn bản các sứ vụ thừa sai xa xôi: về lư do trở lại của tôi, về sự thể cuộc hành tŕnh của chúng tôi, và về tất cả những ǵ có thể làm hầu xây dựng đức tin thánh trong những nơi mà chúng tôi đă nghỉ chân, mà chúng tôi đă thăm hỏi cẩn thận để phúc tŕnh lên được một cách trung thực.

Tôi nhận là các hồng y có một ư hướng đặc biệt t́m tạo thuận lợi cho các sứ vụ thừa sai của chúng tôi. Và sau khi được phép hôn chân đức giáo hoàng, tôi đă nhận được từ ngài một thư tông ṭa gửi riêng cho các giám mục Beryte và Heliopolis, cho phép các ngài được thánh hiến ngay tại nơi thừa sai một vị kế nghiệp cố giám mục Metellopolis (10).

Tôi hy vọng sớm đoàn tụ lại với hai giám mục ấy nhờ cuộc khởi hành của đoàn tàu Hăng hải thương Đông Phương (11). Tôi đă nhận được nơi các vị giám đốc Hăng hải thương tiếng tăm ấy những nghĩa cử nhân từ và nhiệt thành đối với công cuộc thừa sai của chúng tôi. Tôi sẽ thực tồi tệ nếu tôi không nói lên ḷng biết ơn của tôi: họ chẳng những chỉ nghe theo tiếng ḷng đạo đức riêng của ḿnh, mà c̣n theo gương sáng của đức vua, gương đă cho thấy rơ ḷng sốt mến thánh thiện và Kitô giáo đă khiến đức vua cổ vơ việc phát triển đức tin nơi các xứ Đông Phương, và nhất là nơi xứ Trung Hoa, xứ mà xem ra đă kết giao riêng với nước Pháp từ ngày nước Pháp đă cho họ những giám mục đầu tiên.

Tôi c̣n lại ǵ nữa, thưa bạn đọc, nếu không phải là nài xin quư vị khẩn cầu Thiên Chúa chúc lành cho công việc của chúng tôi và xin Ngài gợi ḷng nhiệt thành cho nhiều thợ giỏi có thể phụng sự đạo thánh chúng ta nơi các xứ xa xôi ấy. H́nh như mọi sự đều đă được góp lại để tạo dễ dàng cho việc hoán cải người Trung Hoa, người ta không thể khuyếch đại lên cái khổ sở đường xá nữa. Cứ can đảm và kiên cường là khắc phục được. Cũng không thể cáo từ v́ cái bất trắc của sự thể: kinh nghiệm đă phá tan những chiêu bài do tính lười biếng của chúng ta đưa ra, v́ đă thấy là những kẻ ngoại rất nhậy cảm trước lời giảng dạy về đức tin thánh của chúng ta.

Vậy th́ sự ǵ có thể cản chân bao vị giáo sĩ nhân đức, nếu chẳng phải là cái tính tự ái ngăn họ nếm hưởng cái mạo hiểm của một ơn gọi lớn, ơn gọi sẽ khiến họ từ bỏ mọi sự mà theo gương các Thánh Tông Đồ, dơi bước trên dấu chân các đấng, một đời nhọc nhằn đi t́m cái chết đáng kính cho danh Chúa Giêsu và v́ phần rỗi các linh hồn.

Những xứ sở bao la và tuyệt đẹp nơi Đông Phương đang mở rộng khắp phía đón chào ḷng nhiệt thành của chúng ta: lẽ nào lại chưa đủ việc cho ḷng nhiệt thành của ta ? Ai là người đếm được hằng triệu triệu linh hồn hư mất mỗi ngày và mỗi lúc v́ thiếu sự giảng dạy, thiếu người chỉ dẫn cho họ trông cậy vào Chúa và biết kêu tên thánh Chúa Giêsu ?

Ngụy giáo thống trị trong các xứ sở ấy, mất đi vương quyền của Đấng Tạo Hóa. Chỉ tạm có được hai mươi hoặc ba mươi nhà rao giảng làm việc dựng xây sự thờ phượng Chúa. Bạn đọc thân mến, chúng ta hăy xin Chúa Cả, bằng những lời than văn và những giọt lệ của chúng ta, mở mắt cho các dân ngoại thấy được họ đang mù quáng mà đem ḷng gắn bó với Đấng Tạo Hóa của họ. Xin cho các nhà rao giảng, các linh mục và tất cả những ai nhiệt tâm với Thiên Chúa nhận ra được những ích lợi lớn lao có thể t́m thấy trong các xứ sở xa lạ qua việc lo cho phần rỗi các người ngoại giáo.

V́ ḷng bác ái cảm thông, chúng ta hăy cố gắng cảm nhận nỗi bất hạnh của họ, và hăy thưa lên cho họ và nhân danh họ rằng:

«Lạy Chúa, xin thương đến chúng con. Xin nh́n đến phận hèn mọn của chúng con. Xin chiếu dọi ánh sáng nhân từ Chúa trên bóng tối tăm chúng con. Xin dạy cho các kẻ ngoại đáng thương ḷng kính sợ Chúa, là những kẻ cho đến nay chưa hề biết phụng sự Chúa, và chưa hề nh́n nhận vương quyền cao cả của Chúa là Đấng duy nhất đáng được yêu mến và phụng thờ».

Miserere nostri Deus omnium et respice nos, ostende nobis lumen misericordiarum tuarum et immitte timorem tuum super Gentes quae non exquisierunt te, ut cognoscant quia non est Deus nisi tu, ut enarrent magnalia tua, alleva manus tuas super Gentes alienas ut videant potentiam tuam, ut cognoscant te sicut et nos cognovimus quoniam non est Deus praeter te. (Ecclesiast. 30.cap.)(12) (13).

 

Hết

Hoan hô Chúa Giêsu

 

&&&

<<<<<

 

Chú thích

Kư Sự cuộc hành tŕnh của Đức cha Beryte

Lời giới thiệu

Chương 1: Những sự việc đă xảy ra tại Roma cũng như tại Paris trước cuộc hành tŕnh của ba giám mục người Pháp được sai sang Trung Hoa.

1. Đức cha Lambert de la Motte có tên hiệu ṭa là Beryte. V́ sự kính trọng, tác giả chỉ gọi ngài là Đức cha Beryte.

2. «C’est à la conquête de ces grands pays que Notre Seigneur Jésus-Christ invite aujourd’hui le zèle des Français» (trang 3 trong nguyên bản).

3. Vào thời này, xin nhớ là chưa xứ nào có nền dân chủ.

4. «Ngụy giáo» («ngụy» = sai lầm): idolâtrie (đúng ra, phải dịch là «Ngụy thần giáo»). Theo tinh thần thời đó và dưới ng̣i bút của Jacques de Bourges, người Công giáo chẳng những phải lo rao truyền Chúa Giêsu cho dân ngoại (lương dân và tín đồ Ngụy giáo) mà c̣n phải lo đưa về lại trong Giáo Hội Công giáo các Kitô hữu ly khai nữa (Chính Thống giáo, Thệ Phản giáo tức Tin Lành giáo, Anh giáo, cũng như các lạc phái Nestoriô, Kitô hữu Thánh Gioan... nói tới trong tài liệu này).

5. («Cette nouvelle partie du monde»): đương nhiên, chỉ là «mới» đối với người Âu Châu mà thôi.

6. Tinh thần người Công giáo thế kỷ đó là tinh thần «ngoài Giáo Hội Công giáo, không có ơn cứu rỗi» («Hors de l’Église, point de salut»).

7. Lúc này, Việt Nam chưa được gọi là Việt Nam, chỉ có xứ Đàng Ngoài (Bắc Việt, le Tonkin) và xứ Đàng Trong (Nam Việt, la Cochinchine). Với người Âu Châu chưa biết ǵ nhiều về Việt Nam như Jacques de Bourges, Đàng Ngoài và Đàng Trong hai nước khác biệt nhau.

8. Khi sai 3 giám mục người Pháp sang Viễn Đông, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đă trao cho các ngài một sứ vụ chính yếu là: «Nắm lấy trong tay việc giáo dục giới trẻ, bằng tất cả mọi phương tiện và cách thức có thể được, sao cho họ có đủ khả năng lănh nhận chức linh mục» (xem Huấn thị «Instructio Vicariorum Apostolicorum ad Regna Tocchini et Cocincinae proficiscentium 1659», trong «Rome et les Missions d’Indochine au XVIIè siècle», Bloud et Gay 1943, trang 392-402, của Henri Chappoulie). Sau này, đức giáo hoàng Innocent XI c̣n nhắc lại với đức cha Pallu rằng: «Ta ao ước được thấy các con truyền chức cho một linh mục tại những miền ấy hơn là biết có năm mươi ngàn người ngoại giáo trở lại đạo» (Guy-Marie Oury, «Le Vietnam des Martyrs et des Saints», Fayard 1988, trang 57).

9. «Có thực mới vực được đạo»: các thừa sai rất cần sự nâng đỡ tinh thần và vật chất của các tín hữu. Trong Kư Sự này, Jacques de Bourges đă không hề quên điều này.

10. Cha Alexandre de Rhodes, vâng lời bề trên, xuống tàu tại Marseille ngày 16 tháng 11 năm 1654, sang rao giảng Phúc Âm tại xứ Ba Tư và qua đời tại đó.

11. «Le seul moyen d’assurer la Religion en ces lieux et de maintenir les conquêtes de Notre Seigneur» (trang 11).

12. «Le mémorial».

13. Ngoài việc phải lo cổ động tín hữu của xứ ḿnh tham gia đóng góp vào việc thừa sai, Jacques de Bourges là người Pháp nên yêu mến đất nước Pháp của ḿnh, như ta sẽ thấy trong Kư Sự này. Đó là chuyện thường t́nh và đương nhiên.

14. Chủng viện này sau thành h́nh được, hiện nằm tại Rue du Bac, Paris.

15. Là loại tiền của Pháp thời vua Louis XIV.

16. Khi đi rao giảng, các thừa sai người Pháp không hiểu biết ǵ nhiều về đường xá cũng như các xứ mà họ được sai đến. Lời thú nhận rất thành thực của Jacques de Bourges ở đây cần được ghi nhận để hiểu mà thông cảm hay ngưỡng mộ những chuyện sẽ xảy ra sau này.

17. Hăng Đông Ấn (Compagnie des Indes Orientales) của Ḥa Lan thành lập vào năm 1602.

18. Bồ Đào Nha là xứ Công giáo nhưng chống đối việc Ṭa Thánh dùng thừa sai người Pháp. Ḥa Lan và Anh, ngoài lư do cạnh tranh thương mại, là xứ Tin Lành, không ưa người Công giáo lắm. Lúc này, Pháp chưa có tàu bè thương mại lớn vượt được đại dương tới Trung Hoa.

19. «Compagnie» (trang 20) gọi là «Compagnie de Madagascar» thành lập dưới thời Richelieu (1642).

20. Tại Ấn Độ.

21. Hăng hải thương mới này sẽ được gọi tên là «Compagnie de Chine», lập năm 1659.

22. «Porter jusqu’aux Nations les plus éloignées la gloire du nom Français» (trang 21).

23. Thời đó, người ta thường vượt đại đương cùng một lúc bằng nhiều tàu bè, v́ sợ cướp biển và nhiều lư do khác. Ḥa Lan nổi tiếng là tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải, đóng tàu biển.

24. Bồ Đào Nha hoàn toàn chống đối việc Ṭa Thánh dùng thừa sai Pháp, mà Pháp th́ chưa có tàu đi tới được Ấn Độ hoặc Trung Hoa. Do đó, trong Huấn thị 1659, Thánh Bộ nhắn nhủ ba giám mục rằng: «Hành tŕnh theo đường bộ xuyên qua xứ Syria và Mesopotamia sẽ bằng an cho các đức cha hơn là đường biển Đại Tây Dương và mũi Hy vọng. Và nhất là các đức cha phải thận trọng về những vùng và những nơi mà, cách này hay cách nọ, lệ thuộc quyền bính người Bồ Đào Nha. Đối với họ, xin các đức cha khi có thể th́ gần như đừng chào hỏi ai...» (Xem trong sách đă dẫn của H.Chappoulie). Thánh Bộ đă không lầm, như ta sẽ thấy sau này.

 

Chương 2: Hành tŕnh của đức cha Beryte từ Paris đến Hispaham.

1. Nh́n vào địa lư của những vùng được trao cho đức cha Lambert de la Motte, người ta không thể không tự hỏi rằng các hồng y tại Roma có tinh thần hiện thực và có hiểu biết ǵ nhiều về bản đồ thế giới hay không.

2. Tức linh mục Jacques de Bourges, tác giả Kư Sự này. Về sau, cha làm giám mục Bắc Việt, tức xứ Đàng Ngoài. Tín hữu Bắc Việt thường gọi ngài là «Thầy Gia» (Jacques = Gia).

3. Nguyên bản bằng tiếng La Tinh.

4. «Litière»: một loại gường có mái che.

5. Linh mục François Deydier. Về sau, cha làm giám mục Bắc Việt, tức xứ Đàng Ngoài, cùng với Jacques de Bourges. Tín hữu Bắc Việt thường gọi ngài là «Thầy Phan» (François = Phan).

6. Trong giới giáo sĩ thời đó, không có sự b́nh đẳng: có hạng được trọng vọng, có hạng bị coi thường («haut clergé» và «bas clergé»), bổng lộc cũng khác nhau rất xa.

7. «Grand-Maître».

8. Cách nói này trong Kư Sự thường mang nghĩa tôn giáo hơn là là sự hiểu biết thông dụng: không biết ǵ về Phúc Âm và đức tin công giáo.

9. Tức Hồi giáo, do Mahomed sáng lập.

10. Thái độ của Jacques de Bourges đối với đạo Hồi và tín đồ đạo này là thái độ tiêu biểu của giới Công giáo thời trước: nhỏ mọn, khinh dể và đối kháng.

11. «Janissaire»: lính bộ binh thời đó của Thổ Nhĩ Kỳ.

12. Cũng như người Việt gọi chung các người Âu Châu là người Tây.

13. «Caravane» có nghĩa là đoàn người họp lại để cùng nhau qua sa mạc, thường là các nhà buôn.

14. Tên riêng này (chúng tôi không rơ) có thể là nơi đă kư một thỏa thuận nào đó liên quan đến tương giao giữa vùng đất Hồi Giáo và giới du hành người Âu. Danh từ «la Porte» cũng có nghĩa là giới cầm quyền Thổ Nhĩ Kỳ thời đó.

15. «Capucins» và «Carmes déchaussés».

16. Jacques de Bourges sẽ được thêm xác tín về kinh nghiệm này trong tương lai tại Xiêm La, rằng việc các tu sĩ thừa sai chia rẽ và chống đối nhau thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại tinh thần không sao kể hết được.

17. Luôn luôn trong ư hướng để lại kinh nghiệm đi đường cho kẻ theo sau, Jacques de Bourges đă ghi chú rất nhiều chi tiết về cách thức đi đứng, các nơi chốn khác nhau, phong tục tập quán địa phương... Do đó, đây c̣n là một tài liệu rất phong phú về việc đi lại giữa Âu - Á và đời sống cụ thể của các người dân thời đó.

18. «Romarin»: cây mê điệp (tự điển Đào Duy Anh).

19. «Pavillon».

20. V́ đă quá mệt.

21. «Outres»: loại túi bằng da thú dùng đựng nước, xử dụng trong sa mạc.

22. «Purifier les vapeurs de la tête» ( trang 41).

23. Kinh «Misere»: kinh Vực Sâu.

24. Cà phê không phải là sản phẩm của Âu Châu và vào lúc đó dân Âu chưa biết nhiều đến cà phê, nên tác giả lần đầu tiên biết tới, đă ghi chú cẩn thận như thế.

25. Tác giả không nói rơ là ai, song đoán là đức cha Beryte và hai giáo sĩ tháp tùng.

26. «Curiosité»: chỉ những thứ đồ quư, lạ mà các thương khách hoặc thừa sai Âu Châu thời đó hay đem theo để lấy ḷng quan quyền vua chúa các xứ Á Đông.

27. «Ê-cu» là tiền của Pháp thời đó.

28. Đây là những Kitô hữu đă ly khai khỏi Giáo Hội Công giáo.

29. Các thừa sai thời đó đă bỏ ra rất nhiều thời giờ và sức lực trong việc rửa tội cho các trẻ nhỏ hấp hối, nhất vào cái thời mà y khoa chưa phát triển nên trẻ em rất khó nuôi. Đó là do niềm xác tín của các nhà thần học hồi ấy rằng ai không rửa tội, không ở trong Giáo Hội, chết sẽ không được cứu rỗi.

30. «Khoan dung» (tolérer) không có nghĩa là «chấp nhận» (accepter).

31. Lương giáo («Gentils») chỉ giới người lương thiện, nhưng không hẳn là theo một tôn giáo nào. C̣n Ngụy giáo hay Ngẫu Thần giáo («Idolâtrie») chỉ giới người thờ phượng các thần thánh giả tạo, nghĩa là sai lạc, lầm lẫn (tức là «ngụy»).

32. «Une certaine nation que lhon appelle Chrétiens de saint Jean, auquel ils portent grand respect et plus quhà Jésus-Christ» (trang 53). Chữ «une certaine nation» (một quốc gia nào đó) ở đây cần phải được hiểu như là «một nhóm người nào đó» hoặc là «một giáo phái nào đó».

33. «Lumière sensible» (trang 53) = ánh sáng hữu h́nh, ánh sáng vật lư.

34. Khi Chúa Giêsu c̣n sống và sau đó vào thời các tông đồ, có những người Do Thái tin vào Thánh Gioan Tẩy Giả và cho ngài là Đấng thiên sai, chứ không phải là Chúa Giêsu. (Sự kiện này có được nói đến trong Phúc Âm thứ bốn và trong Sứ Vụ Tông Đồ). Nơi đây, chúng tôi tự hỏi cái nhóm «Kitô hữu của Thánh Gioan» này có phải do nhóm người Do Thái theo Thánh Gioan Tẩy Giả xưa (les Baptistes) lưu truyền lại hay không. Những quan niệm của họ về «ánh sáng», «Phép Rửa», «hiến tế xá tội», vân vân, làm chúng ta thấy họ rất gần với đám đồ đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả ngày xưa.

35. Vào thời Mahomed, những người lạc giáo sống trên đất Hồi giáo không thể dung thứ được, hoặc là họ phải theo đạo Hồi, hoặc là họ phải chịu tử h́nh.

36. «Le Paganisme» (trang 55).

37. Vào thời đó, một trong những tư tưởng thần học về vấn đề thừa sai là đem ánh sáng đến cho những người ngồi trong bóng tối tăm, dư âm của thế kỷ «Ánh sáng» (trong triết sử Tây Phương). Bởi thế, chẳng ngạc nhiên ǵ khi thấy Jacques de Bourges hay coi người khác là không hiểu biết, lầm lạc.

38. «D’un pied» = một bộ Anh, quăng 30cm.

39. «Les Ministres» (trang 55) tức là những kẻ lo việc đền thờ. Jacques de Bourges dùng danh từ riêng của Kitô giáo để nói về các tôn giáo khác là chuyện thường xuyên. Đó cũng là điểm cho thấy vấn đề sứ vụ thừa sai hồi đó như thế nào, ví dụ, không hề có chuyện «hội nhập văn hóa» (lhinculturation) như ngày hôm nay.

40. Nghĩa là những xứ Cận Đông mà du khách sẽ đến: «Le pays du levant».

41. «Giáo sĩ triều» để tạm dịch chữ «Séculier» là những giáo sĩ, không thuộc ḍng tu nào. Trái lại là «tu sĩ», thuộc một ḍng tu nào đó («Régulier»). Tu sĩ khấn khó nghèo, c̣n giáo sĩ không có lời khấn này.

42. «6 livres 3 sols», đơn vị tiền tệ Anh hồi đó.

 

Chương 3: Tiết tục cuộc hành tŕnh của đức cha Beryte, từ Bassora đến Hispaham.

1. «More» hay «Maure» là dân sống trong sa mạc, gần như không có quốc gia.

2. «Francs»

3. Đúng ra là «Ramadan».

4. Đúng ra là «Coran». Sách Coran đối với Hồi giáo cũng như Kinh Thánh đối với Kitô giáo.

5. Đây c̣n là một sứ mệnh mà Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin mong đợi nhóm thừa sai người Pháp này thực hiện hầu Thánh Bộ được độc lập hơn đối với triều đ́nh Bồ Đào Nha.

 

Chương 4: Vài nét đặc thù của thành phố Hispaham, kinh đô xứ Ba Tư.

1. Hệ thống chữ cho người mù được sáng chế sau này tại Âu Châu, do một giáo sư người Pháp: Louis Braille (1809-1852).

2. V́ cách hút thuốc này không có bên Âu Châu, nên Jacques de Bourges ghi chú lại cẩn thận, một cách hiếu kỳ.

3. «La place royale» (trang 86): khó mà biết rơ rằng Jacques de Bourges muốn nói đến quảng trường triều đ́nh bên Pháp hay bên Ba Tư.

4. Nói một cách dễ hiểu hơn: nơi này không có ṭa giám mục thực sự, chỉ có cái tước hiệu mà thôi.

5. Bởi v́ trên đất Thổ, phải ăn mặc như dân Thổ, đeo khăn người Thổ. Jacques de Bourges có vẻ hội nhập khó khăn nơi đất Thổ Nhĩ Kỳ.

6. Tức là họ giả bộ xem và đếm hàng để mua mà lợi dụng bỏ túi riêng.

7. «Les sequins de Venize» (trang 87).

 

Chương 5: Giám mục Beryte khởi hành từ Hispaham đến Gomeron.

1. Thời ấy người Công Giáo Pháp vốn hay nghi kỵ người Anh là các Kitô hữu ly khai. Do đó, tác giả có vẻ e dè mỗi lần nói tới họ, nhất là khi phải khuyên nên đi trên tàu của họ.

2. Tác giả gọi ông này là «lương» (gentil), nhưng đúng ra là tín đồ Hồi giáo (trang 96).

3. Tác giả có vẻ mỉa mai. Nhưng vào thời ấy, chưa phải là lúc người ta biết tôn trọng và khoan dung đối với người khác tôn giáo với ḿnh.

 

Chương 6: Giám mục Beryte tới Surate và hành tŕnh tại vùng Ấn Độ.

1. Thành phố cảng tại Ấn Độ mà lúc đó thuộc quyền người Bồ Đào Nha và họ đặt nơi nàymột ṭa tổng giám mục.

2. Kinh đô Bồ Đào Nha.

3. Vào thời gian này, mặc dù thế lực của Bồ Đào Nha không c̣n mạnh như xưa, nhưng họ vẫn c̣n một số thuộc địa tại Á Châu.

4. Đương nhiên, các thừa sai người Pháp rất ư thức rằng đi rao giảng như thế là đi ngược lại với ư muốn của triều đ́nh Bố Đào Nha. Hơn nữa, chính Thánh Bộ Roma đă cho họ hiểu chuyện ấy.

5. Bồ Đào Nha dù yếu thế hơn xưa, nhưng vẫn t́m cách giữ lại quyền lợi của họ theo cái gọi là «Bảo hộ Truyền giáo» («Patroado») mà đức giáo hoàng Nicolas V đă kư nhận cho họ ngày 28 tháng Một năm 1455, qua sắc lệnh «Romanus Pontifex». Dựa theo đặc quyền này, Bồ Đào Nha có độc quyền rao giảng Tin Mừng và tổ chức Giáo Hội tại các nơi họ khám phá ra. Theo thiển ư chúng tôi, cái sai lầm tai hại trong sắc lệnh của giáo triều Roma là đă không cẩn thận giới hạn đặc quyền «Bảo hộ Truyền giáo» vào một khoảng thời gian nhất định. Do đó, vào thế kỷ 17 này, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin bắt đầu phải đối phó nhiêu khê với triều đ́nh Bồ Đào Nha.

6. Bồ Đào Nha

7. Bản văn ghi là «six vingt personnes» (trang 101).

8. «Brahmane» nghĩa là các tu sĩ Ấn Độ giáo (l’Hindouisme).

9. Lần đầu tiên tiếp xúc với các tôn giáo cổ truyền của Ấn Độ, Jacques de Bourges đương nhiên có cái nh́n thiếu xót, lại thêm cái «mặc cảm tự tôn» của các người Công giáo thời đó khiến đoạn tường thuật trên xem ra rất lạc điệu đối với thế giới hiện giờ, kể cả đối với Giáo Hội Công giáo hôm nay. Mặc khác, Jacques de Bourges không hiểu rơ và do đó không giúp ta phân biệt được đâu là Phật giáo và đâu là Ấn Độ giáo mà từ tôn giáo đó đă phát sinh ra Phật giáo.

10. Tức là tín đồ Ấn Độ giáo.

 

Chương 7: Tiếp theo cuộc hành tŕnh của chúng tôi tới Massulpatan.

1. Cây dừa là loại cây miền nhiệt đới, không có bên Pháp.

2. Các thừa sai Pháp đă nghĩ tới chuyện rao giảng Tin Mừng ở đó trong trường hợp không vào được Trung Hoa.

 

Chương 8: Xuống tàu tại Massulpatan đi Tenasserim.

1. Thời đó tàu bè chạy bằng buồm, nên gặp lúc gió lặng, tàu nằm một chỗ trên biển cả, đôi khi kéo dài nhiều ngày trời.

2. Quần đảo nằm giữa Ấn Độ và Xiêm La (Thái Lan ngày nay).

3. «Recours aux charmes et aux pacts» (trang 125).

4. Tức Mahomed, đấng sáng lập Hồi giáo (sinh tại La Mecque quăng năm 570 và qua đời năm 632).

5. Biết trước sự chống đối của triều đ́nh Bồ Đào Nha, Thánh Bộ Roma đă căn dặn các đức cha thừa sai Pháp như sau: «Sau khi nhận được các huấn thị này từ đức Khâm sứ Ṭa Thánh (tại Paris), xin các Đức cha phải ra đi ngay khi có thể và cách kín đáo nhất có thể được. Phải dấu kín những ǵ liên quan đến cuộc hành tŕnh và quyết định khởi hành của các Đức cha, v́ sợ rằng khi những sự ấy bị tiết lộ sẽ gây ra hàng loạt những cản trở ở rất nhiều nơi». (Huấn thị 1659: xem sách đă dẫn của H.Chappoulie, trang 392-402).

6. «Talapoin, Talapoi, Talapăo» là tên mà người Bồ Đào Nha lúc đó dùng để chỉ các tu sĩ Phật giáo tại Xiêm La.

7. Thái độ này sẽ là thái độ của người Xiêm La, nhất là giới nhà tu Phật giáo, đối với Kitô giáo trong suốt một thế hệ các thừa sai sau đó.

8. Thực sự, cái tự do tôn giáo tại Xiêm La thời ấy là do cái lợi kinh tế mà Xiêm La t́m thấy nơi việc buôn bán với nước ngoài, chứ không v́ lư do nào khác. Jacques de Bourges có lẽ v́ mới đến nên tỏ ra hơi quá lạc quan. Rao giảng Tin Mừng trong một xứ Phật giáo Tiểu Thừa như Xiêm La không phải là một chuyện dễ dàng như tác giả đă mơ tưởng.

 

Chương 9: Hành tŕnh từ Tenasserim đến Xiêm La.

1. Kinh đô xứ Bạch Tượng thời đó là Ioudia (hay Ajouthia, Juthia), nằm bên ḍng sông Chao Phraya (Ménam). Măi sau này, kinh đô mới chuyển xuống Băng Cốc. Như tác giả đă xác định, tên gọi Xiêm La chỉ kinh đô Ajouthia của xứ Xiêm La, chứ không chỉ toàn cơi xứ Xiêm La.

2. Với cái lối tường thuật này của tác giả, khó mà biết rơ giáo sĩ nào vừa bị chết đuối hụt với đức cha Lambert de la Motte, và giáo sĩ nào đă trở lại Tenasserim làm giấy tờ: Jacques de Bourges hay François Deydier ?

3. «Huấn thị 1659» của Thánh Bộ: «Nhất là các Đức cha phải trông chừng trong cuộc hành tŕnh để không ai có thể biết tên các Đức cha và mục tiêu của sứ mệnh các Đức cha. Bởi đó, các Đức cha hăy đổi tên, đổi nguyên quán và đổi cách thức cư xử, và không được nói đến cuộc hành tŕnh của ḿnh, đến đường đi nước bước và nhất là đến mục đích cuộc hành tŕnh này. Điều quan trọng hơn hết mọi sự là không được nói ra cái phẩm chức giám mục của các Đức cha.» (Xem sách đă dẫn của H.Chappoulie).

4. Có nghĩa là v́ đường lồi lơm, bánh xe rơi vào ổ gà nên chỉ c̣n phần trục bánh xe là nằm được trên đường.

5. Tác giả muốn hài hước: «Nos petits tombeaux portatifs» (trang 136).

6. «Pour dire la sainte Messe le jour de lhAssomption de la glorieuse Vierge» (trang 139). Tín điều «Đức Mẹ Hồn xác lên trời» chỉ được đức giáo hoàng Piô XII công bố «ex cathedra» vào năm 1950. Nhưng «Đức Mẹ Mông triệu» đă được các tín hữu Công giáo tin kính từ rất xa xưa rồi; do đó, chúng ta thấy đức cha Lambert de la Motte và 2 thừa sai Pháp làm Lễ Mông Triệu tại Pipili năm 1662.

7. Hôm đó là ngày 22 tháng Tám năm 1662. Đức cha Lambert de la Motte và hai giáo sĩ đă đi 2 năm, 2 tháng và 4 ngày. Lúc đó, đức cha được 38 tuổi.

 

Chương 10: Kư sự đơn giản về xứ Xiêm La.

1. Chương tŕnh của các thừa sai Pháp là đi Trung Hoa.

2. Tức vịnh Ấn Độ.

3. Nghĩa là lúa gạo cho người Xiêm cũng như lúa ḿ cho người Pháp.

4. «Du salpêtre» (trang 145).

5. «De lhindigo, du bois de sapaon pour les teinturiers» (trang 145).

6. «Le benjoin, la gomme laque» (trang 145).

 

Chương 11: Trái cây xứ Xiêm La.

1. «Le durion» (trang 146).

2. Chữ «Thiên Nhiên» mà Jacques de Bourges viết hoa, có tính cách hơi siêu nhiên, hơi tôn giáo một chút.

3. «Les jacques» (trang 147).

4. «Les mangoustans» (trang 148).

5. «Les figues» (trang 148). Trong đoạn này, tác giả ghi rơ là trái «figue» (2 lần trong đoạn văn). «Figue» = trái sung. Nhưng đọc xong những ǵ tác giả diễn tả, ta thấy nói về trái chuối (banane) và cây chuối (bananier) th́ có vẻ hợp lư hơn.

6. Đơn vị đo chiều dài ngày xưa: 1 «pouce» = 27,07 mm (trang 148).

7. «Une aune et demie» (trang 149). «Une aune» = 1,888 mètre

8. «Noisettes» (trang 150).

9. «Areca» (tiếng Bồ Đào Nha trong nguyên bản. Tiếng Pháp là «arec») (trang 150).

10. «La muscade» (trang 150).

11. Có lẽ là trái xoài (mangue). Ở Xiêm La có loại ruột đỏ, vỏ vàng. Ở Việt Nam th́ có loại ruột vàng, vỏ vàng hay xanh.

12. Nguyên bản: «Une poire de bon-chrétien» (trang 151).

 

Chương 12: Phong hóa và tập tục của dân Xiêm La.

1. «Olivâtre» (trang 152).

2. «Avoir peu avec le repos» (trang 152).

3. Nguyên bản bằng tiếng la tinh.

4. Xiêm La là xứ Phật giáo Tiểu Thừa.

5. Rượu đế («lheau de vie de riz», trang 155).

6. «Cette feuille», tức là trà uống.

7. «S’enivrer» = say sưa, say túy lư, mê hồn. Từ thực vật, người ta có thể làm ra «rượu mạnh» (eau de vie), «rượu nhẹ li-cơ» (liqueur) hay nước trái cây (jus de fruit).

8. «Les vapeurs» (trang 156).

9. «Le Thé fortifie la raison et la dégage des vapeurs qui empêchent ses fonctions» (trang 156): một cách nh́n b́nh dân về cơ thể con người.

10. Jacques de Bourges là người Pháp, lần đầu tiên ra khỏi xứ ḿnh, nên để hiểu thiên hạ và để cắt nghĩa cho người đồng hương rơ, chỉ c̣n một cách thường t́nh là so sánh với cái của ḿnh. Do đó, đời sống của người Xiêm La thường được diễn tả ở đây theo kiểu so sánh với đời sống tại Pháp lúc bây giờ.

11. «Plusieurs aunes» (trang 157): xem chú thích số 7 trong Chương 11.

12. «Les Officiers» (trang 157).

13. «Non point à la naissance» (trang 159).

 

Chương 13: Bàn về tôn giáo của xứ Xiêm La.

1. «Arts» = nghệ thuật. Jacques de Bourges dùng từ này để chỉ các nghề thủ công nghiệp (trang165).

2. «Leurs Docteurs» ( = các nhà tiến sĩ) , ở đây có nghĩa là những người thông thạo về tôn giáo, như các thầy thông luật trong Phúc Âm.

3. Các thừa sai đ̣i hỏi rằng một khi chấp nhận đạo Công giáo là đạo của sự thực th́ không thể tin nhận một tôn giáo nào khác, v́ «chỉ có một Thiên Chúa nên chỉ có thể có một tôn giáo». Chính Jacques de Bourges đă lập luận như thế.

4. «L’Unité de Dieu» (trang 167).

5. «Les Idoles» (trang 168).

6. «Les couvents des sanctificateurs» (trang 169).

7. Theo cái nh́n của các thừa sai Công giáo, thờ phượng bất kỳ một thụ tạo nào như Đấng Tạo Hóa (Thiên Chúa) đều là chuyện lầm lạc, sai trái chân lư, tức là tội lỗi. «L’Idolâtrie» (Ngụy Thần giáo, Tà giáo) là danh từ chỉ chung những ai tôn thờ «thụ tạo» như «Tạo Hóa».

8. «Ce premier Être» (trang 169).

9. Lối lư luận triết học này rất quen thuộc trong giới các thừa sai người Âu Châu thời đó, v́ Kitô giáo Tây Phương đă thường xuyên xử dụng triết lư Hy lạp để tŕnh bày và giải thích niềm tin của ḿnh. Do đó, các bài giảng đạo có vẻ trí thức, nhưng rất khô khan, ít thuyết phục được người khác. Tuy nhiên, các thừa sai Pháp này cũng ư thức được sức mạnh của gương sáng và tinh thần bác ái, chia xẻ, trong công việc rao giảng Tin Mừng như chúng ta sẽ thấy ở sau.

10. «Les pauvres âmes errantes» (trang 175).

11. Sau khi đến kinh đô Xiêm La một thời gian, đức cha Lambert de la Motte đă phái thừa sai Jacques de Bourges trở lại Tenasserim đón đức cha Pallu. Chuyện này sẽ được chính Jacques de Bourges kể lại trong Chương 15 sắp tới.

12. H́nh tượng (figure) ở đây mang nghĩa siêu nhiên, như biểu tượng của thần linh vậy.

13. «La plante d’un pied humain, la plante du pied du premier homme» (trang 178).

14. Đảo Tích Lan (le Ceylan) nằm trong vịnh Ấn Độ.

15. Đọc Kư Sự của Jacques de Bourges, nhất là trong chương 13 này và đặc biệt những ḍng tiếp theo nơi đây, xin đừng bao giờ quên rằng đang đọc Kư Sự của một thừa sai Tây Phương hậu bán thế kỷ 17, rất nhiệt thành song vẫn là người của thời đại ấy.

16. «Ces imposteurs» = những kẻ lợi dụng, lừa đảo, gian xảo (trang 181).

17. Có lẽ, Jacques de Bourges chưa biết tới cái «diệt dục» nơi Phật giáo nên chỉ dùng từ «tiết dục» (continence) là danh từ của Kitô giáo.

 

Chương 14: Thời đức cha Beryte ở Xiêm La và buổi đầu sứ vụ thừa sai.

1. Điều đáng ngạc nhiên là đức cha Lambert de la Motte đă được biết rằng triều đ́nh Bồ Đào Nha cho lệnh bắt ngài (xem Chương 6), thế mà ngài lại đến ở trong khu này. Tuy nhiên, ít lâu sau, ngài đă phải bỏ khu vực Bồ Đào Nha mà sang cư trú một nơi khác.

2. Đức cha được Ṭa Thánh bổ nhiệm làm «Giám quản Tông Ṭa» cho 3 tỉnh Nam Trung Hoa, đảo Hải Nam, xứ Đàng Trong, Cam Bốt...

3. «À cette première découverte, Mr l’ Évêque de Beryte crut qu’il était de son devoir de donner commencement à sa Mission, par l’instruction de ces Cochinchinois, qui étaient ses oüailles» (trang 187).

4. Đây là thói quen của các người Âu Châu thời đó, thương gia hay thừa sai, trong vấn đề giao thiệp.

5. Có nhiều nguyên nhân để giải thích tại sao những người Đàng Trong này có mặt và định cư bên xứ Xiêm La ngay từ thời đó rồi: buôn bán, chiến tranh, tù binh chiến tranh, chạy trốn cuộc bách đạo bên xứ nhà...

6. Đă có nhiều người được rửa tội chỉ sau hai hoặc ba lần nghe thừa sai giảng dạy. Có lẽ v́ các thừa sai phải chạy trốn, hoặc phải sống lén lút trong thời kỳ bắt đạo. Và nhất là các thừa sai hồi đó cần rửa tội ngay khi có thể, kẻo người ta chết không được lên Thiên Đàng. Xác tín thần học hồi đó như thế. Giảng dạy 8 ngày trước khi rửa tội cho kẻ ngoại như cha Alexandre de Rhodes đă đề nghị ra đă là một tiến bộ rồi.

7. Có ư nói tới người Bồ Đào Nha.

8. (Xem chú thích 6 trong Chương 14 này).

 

Chương 15: Tiếp theo những công việc của chúng tôi trên đất Xiêm La cho tới lúc đức cha Beryte đi sang Quảng Đông, hải cảng đầu tiên của Trung Hoa.

1. Cho tới lúc đó, xứ Xiêm La chưa thuộc quyền của các đức cha và thừa sai người Pháp. Việc đức cha Lambert de la Motte và 2 giáo sĩ phụ tá giảng dạy và tập hợp các bổn đạo người xứ Đàng Trong lại như thế và vào lúc này là do thiện chí hơn là do nghĩa vụ đă nhận từ Thánh Bộ Roma. Tuy nhiên đức cha đă biết trước việc ngài phải làm. Phải chờ ít năm sau đó, xứ Xiêm La mới chính thức được Ṭa Thánh sát nhập vào sứ vụ thừa sai của các đức cha người Pháp.

2. Theo sự hiểu biết của chúng tôi, đây là lúc đang thành h́nh một cộng đoàn Việt Nam Công giáo đầu tiên tại hải ngoại: giáo xứ Thánh Giuse tại Ajouthia, kinh đô xứ Xiêm La. Cộng đoàn này sẽ đóng một vai tṛ không nhỏ đối với lịch sử Giáo Hội Công giáo Việt Nam sau này. Tuy nhiên, chưa thấy tác giả nào nói đến cái giáo xứ Việt Nam Công giáo hải ngoại đầu tiên này, do đức cha Lambert de la Motte thành lập.

3. Tức là Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin.

4. Các thừa sai Pháp do Thánh Bộ Roma sai đi chỉ hiểu biết về các xứ Đông Nam Á qua tài liệu (đặc biệt là các tác phẩm của cha Alexandre de Rhodes đă in ra tại Âu Châu) và các tin tức nhận được tại Pháp và nhờ gặp gỡ các thừa sai khác trên đường đi. Đến nơi, các ngài mới khám phá ra nhiều chuyện khác, như chuyện các tu sĩ thừa sai đi buôn, chuyện cạnh tranh quyền bính giữa các quốc gia, đặc biệt là Bồ Đào Nha, vân vân. Trong mọi chuyện tranh tụng xảy ra lúc này và c̣n kéo dài măi sau đó, chúng ta cũng đừng quên rằng đức cha Lambert de la Motte vốn đă làm việc tại ṭa án Normadie và có một tính khí rất cứng cỏi, ngài đâu sợ những vấn đề kiện tụng.

5. Phi Luật Tân thuộc quyền rao giảng của triều đ́nh Tây Ban Nha.

6. Macao (tiếng Việt: Áo Môn) nằm ở cửa sông Tây Giang (Quảng Đông, Trung Hoa), thuộc quyền người Bồ Đào Nha, nơi mà các cha Ḍng Tên có xây một học viện lớn. Triều đ́nh Bồ Đào Nha hồi đó đặt một ṭa giám mục tại đây (cũng như tại Goa, Ấn Độ). (Xem thêm: Đỗ Quang Chính, «Lịch sử chữ quốc ngữ», Sài G̣n 1972 - Paris 1985).

7. Nói ngay ra, Jacques de Bourges cũng nên ca tụng các cha Ḍng Tên người Pháp một chút, v́ họ rất có uy tín tại triều đ́nh vua Louis XIV tại Pháp lúc bấy giờ. (Xem thêm: Dirk Van der Cruysse, «Louis XIV et le Siam», Fayard 1991).

8. Tắm lội công khai dưới sông.

9. «Marqué au pinçon de Paris» (trang 212).

 

Chương 16: Đức cha Beryte khởi hành tại Xiêm La và xuống tàu đi Trung Hoa.

1. «La partie raisonnable de l’âme et la partie inférieure» (trang 216).

2. «Ils exécutèrent cette résolution avec une générosité qui est particulière à cette Nation» (trang 217).

3. Vào năm 1664, 2 đức cha Lambert de la Motte và Pallu, cùng 4 giáo sĩ thừa sai Pháp, đă hội công đồng tại Ajouthia. Đây là một công đồng quan trọng bàn thảo 4 vấn đề then chốt: (1) thành lập Ḍng Mến Thánh Giá, (2) soạn thảo «Huấn thị cho các Thừa sai» (quen gọi là «Monita ad missionarios»), (3) lập Trung tâm rao giảng Tin Mừng Đông Nam Á tại Ajouthia và xin Ṭa Thánh thẩm quyền rao giảng tại xứ Xiêm La, (4) lập chủng viện Thánh Giuse tại Ajouthia để đào tạo linh mục bản xứ. (Xem thêm: Jean Guennou, «Missions Étrangères de Paris», Fayard 1986).

4. Đức cha Lambert de la Motte bị những người Bồ Đào Nha tại Ajouthia t́m cách mưu sát. Rồi xảy ra chuyện một thanh niên Bồ Đào Nha vào nhà của đức cha làm khó dễ với ngài. Nhưng được tin này, các người xứ Đàng Trong liền kéo cả khu ḿnh tới can thiệp, giải cứu và đưa đức cha Lambert de la Motte về ở nơi gần khu người Đàng Trong. Từ hôm đó, họ chia nhau canh gác cẩn mật nhà đức cha. (Xem thêm: A. Launay, «Histoire de la Mission de Siam. Documents historiques, Tome I», Téqui-Paris 1920, trang 31, 33-35).

 

Chương 17: Trở lại Âu Châu bằng đường biển. Cái chết của giám mục Metellopolis. Tới Luân Đôn.

1. Những danh từ riêng, chúng tôi cố gắng xử dụng y như trong nguyên bản Pháp ngữ của tác giả.

2. Đức cha Pallu đến Ajouthia cùng với 4 giáo sĩ và 1 giáo dân phụ tá ngày 24 tháng Giêng năm 1664.

3. V́ chưa đủ tuổi quy định, c̣n quá trẻ.

4. Tức người Hoà Lan

5. «Livre» = cân, đơn vị cân lường ngày xưa.

6. Tàu Saint-Louis của Hăng hải thương «Compagnie de Chine» bị băo ch́m ngày 19 tháng Chạp năm 1660 (Chương 1). Nhưng tài liệu và dự án của Hăng này đă giúp không ít cho việc thành lập một Hăng hải thương mới tại Pháp, dưới thời vua Louis XIV, gọi là «Compagnie des Indes Orientales» (Hăng Đông Ấn).

7. Anh giáo.

8. Mùa Chay, không ăn thịt, chỉ ăn tôm cá.

9. Về lịch sử Chủng viện này, có thể xem thêm: Jean Guennou, «Missions Étrangères de Paris», Fayard 1986.

10. Ngày 25 tháng Ba năm 1674, cha Louis Laneau được đức cha Lambert de la Motte thánh hiến giám mục tại Chủng viện Thánh Giuse, Ajouthia, cũng mang hiệu toà Metellopolis, được Ṭa Thánh Roma bổ làm giám quản tông ṭa Xiêm La và tỉnh Nam Kinh (Trung Hoa). Đức cha Laneau thường được coi như người con tinh thần của đức cha Lambert de la Motte, mặc dù ban đầu ngài đă theo đức cha Pallu từ Paris đến Xiêm La.

11. «Compagnie du Commerce d’Orient» (trang 242), đúng ra phải gọi «Compagnie des Indes Orientales».

12. Tiếng La tinh trong nguyên bản (trang 245).

13. Kư Sự của Jacques de Bourges chấm dứt ở đây.

Jacques de Bourges rời Âu Châu ngày 14 tháng Ba năm 1666 và đến Ajouthia tháng Hai năm 1669, rồi sang xứ Đàng Ngoài cũng vào năm đó (1669). Làm giám mục xứ Đàng Ngoài cùng với François Deydier. Đức cha François Deydier qua đời ngày 1 tháng Bảy năm 1693 tại Hải Dương. Đức cha Jacques de Bourges bị trục xuất khỏi xứ Đàng Ngoài và qua đời tại Ajouthia ngày 9 tháng Tám năm 1714.

Phần đức cha Lambert de la Motte, ngài qua đời trong Chủng viện Thánh Giuse tại Ajouthia, vào lúc 4 giờ sáng ngày 15 tháng Sáu năm 1679, (55 tuổi). Nhờ khảo nghiệm tử thi (l’autopsie), người ta khám phá ra «3 ḥn hạn lớn dính vào nhau... Và c̣n khám phá ra bọng đái của ngài đă quá hư thối, làm mủ độc. Một trong 2 quả thận sưng lớn như nắm tay với một mụn ung nhọt đă dậy mủ» (Thư của đức cha Laneau gửi về Paris: xem sách đă dẫn của Adrien Launay, trang 73-74).

. / .

<<<<<

 

Mục Lục

Kư Sự cuộc hành tŕnh của Đức cha Beryte

Lời giới thiệu

Chương 1: Những sự việc đă xảy ra tại Roma cũng như tại Paris trước cuộc hành tŕnh của ba giám mục người Pháp được sai sang Trung Hoa

Chương 2: Hành tŕnh của đức cha Beryte từ Paris đến Hispaham.

Chương 3: Tiết tục cuộc hành tŕnh của đức cha Beryte, từ Bassora đến Hispaham.

Chương 4: Vài nét đặc thù của thành phố Hispaham, kinh đô xứ Ba Tư.

Chương 5: Giám mục Beryte khởi hành từ Hispaham đến Gomeron.

Chương 6: Giám mục Beryte tới Surate và hành tŕnh tại vùng Ấn Độ.

Chương 7: Tiếp theo cuộc hành tŕnh của chúng tôi tới Massulpatan.

Chương 8: Xuống tàu tại Massulpatan đi Tenasserim.

Chương 9: Hành tŕnh từ Tenasserim đến Xiêm La.

Chương 10: Kư sự đơn giản về xứ Xiêm La.

Chương 11: Trái cây xứ Xiêm La.

Chương 12: Phong hóa và tập tục của dân Xiêm La.

Chương 13: Bàn về tôn giáo của xứ Xiêm La.

Chương 14: Thời đức cha Beryte ở Xiêm La và buổi đầu sứ vụ thừa sai.

Chương 15: Tiếp theo những công việc của chúng tôi trên đất Xiêm La cho tới lúc đức cha Beryte đi sang Quảng Đông, hải cảng đầu tiên của Trung Hoa.

Chương 16: Đức cha Beryte khởi hành tại Xiêm La và xuống tàu đi Trung Hoa.

Chương 17: Trở lại Âu Châu bằng đường biển. Cái chết của giám mục Metellopolis. Tới Luân Đôn.

Chú thích.

- hết -

<<<<<